Sử thi Odyssée - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
( Thi ca khúc X )

Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC X : Thần nữ Quán Trí Tuệ đến An Thạch tìm Thế Viên Mạc
 

TÓM LƯỢC : Nói về Thế Viễn Mạc (Télemaque) con trai Uy Lĩnh, sau buổi họp ớ Thiên Đình (Olympe). Thần nữ mang hài vàng bay xuống An Thạch (Ithaque), giả dạng xưng tên Mân Thế (Mentès) người Tà Phiên (Taphiens). Thế Viễn Mạc tiếp đón nồng hậu và kể chuyện gia đình. Quán Trí Tuệ ban phép cho chàng trai trẻ thêm lòng can đảm và khuyên chàng đi Phy Lô (Pylos) tìm gặp vua Ninh Tô (Nestor) và đi Xích Bạc (Sparte) tìm vua Mai Ninh Lạc (Ménélas) để hỏi thăm tin tức cha, rồi Thần nữ từ giả bay đi. Thế Viễn Mạc trở lại bàn tiệc, Nhã Lan (Pénélope) xuống lầu trách người du tử sao hát bài ca buồn, Thế Viễn Mạc bênh vực khuyên mẹ lên lầu. Nhã Lan ngạc nhiên lời nói chững chạc của con và đi lên. Bọn cầu hôn nham nhỡ đòi đi theo. Thế Viễn Mạc cầm kiếm ngăn lại và đuổi bọn cầu hôn đi, bọn cầu hôn đấu khẩu với Thế Viễn Mạc rồi bỏ đi.
 
 

Ngay sau buổi họp Thiên Đình, (3453)

Quán Trí Tuệ đã giáng trần liền ngay,

Từ Thiên Sơn đỉnh vút mây,

Thong dong cánh phượng tung bay đảo vàng,

Quê hương Uy Lĩnh anh hùng,

Đảo vàng An Thạch mơ màng sóng xanh,

Trước cung tráng lệ dừng chân,

Bọn cầu hôn tụ trước sân chơi cờ.* (3460)

Gia nhân rót rượu từ vò,

Tiệc bày bánh trái, dê bò chín thơm.

Thế Viễn Mạc thoáng thấy Thần,

Trong lòng linh tính muốn gần khách chơi.

Vội vàng chào hỏi tươi cười,

Và mời vào tiệc bên ngôi góc đài,

Bọn cầu hôn dãy bàn dài,

Hai hàng thị nữ bày mời thức ăn,

Bánh thơm, thịt béo rượu nồng,

Du nhân ca hát góp phần thêm vui. (3470)

Say sưa tiếng hát câu cười,

Thế Viễn Mạc khẽ hỏi ngưởi phương xa.

Thầm thì kể chuyện trong nhà,

Nhỏ to than thở, chuyện gia đình mình.

Tôi là Mân Thế khách xưng,

Con vua An Lộ trị vùng Tà Phiên,(Anchialos, Taphiens)*

Thương thuyền vượt biển buôn đồng,

Thuyền vừa cập bến bên vùng vịnh kia.

Đã quen Uy Lĩnh từ xưa,

Trước là mua bán, sau là thân thương. (3480)

Hỏi thăm Lã Đạt lão vương,

Nghe đâu ngài đã về thôn dưỡng già.

Bên đồng nho với vườn hoa,

Sống đời thanh đạm như là nông dân.

Hôm nay tôi lại đến thăm,

Vì nghe Uy Lĩnh về gần tới nơi,

Bấy lâu thần cản bước người,

Cho nên phiêu bạt bên trời biển xa.

Khi hoang đảo, khi phong ba,

Lòng chàng vẫn nặng tình nhà quê hương. (3490)

Hôm qua thần mộng bảo rắng,

Tìm con Uy Lĩnh báo tin thế này.

Uy Lĩnh sắp sửa về đây,

Hãy mau chuẩn bị một ngày đoàn viên.

Thần cho ta biết tỏ tường,

Rắng Uy Lĩnh có người con trưởng thành.

Giống cha khuôn mặt, tính tình,

Mắt xanh cương nghị, sáng trong như người.

Hai mươi năm đã qua rồi,

Từ khi chàng giả từ tôi lên đường. (3500)

Tiếp lời Viễn Mạc vui mừng :

Hân hoan được tiếp bạn vàng của cha.

Dấu chi nỗi khổ chuyện nhà,

Tôi con Uy Lĩnh, cha ra chiến trường,

Mẹ tôi một dạ trung trinh,

Nuôi con khôn lớn thành danh như người.

Tháng ngày mẹ vẫn dạy tôi,

Làm con Uy Lĩnh học thời siêng năng.

Thi, đàn, thể dục tập tành,

Mẹ trông mẹ đợi con thành như cha. (3510)

Vì đâu bác hỏi thế mà ?

Tôi con Uy Lĩnh mẹ cha rành rành.

Mỉm cười đôi mắt tinh anh,

Quán Trí Thần nữ cùng chàng tâm giao :

Nhiệm mầu Thần Dớt truyền trao,

Giống dòng Uy Lĩnh nối nhau anh tài.

Hỏi cháu thành thật trả lời,

Cớ duyên bữa tiệc đông người vì đâu ?

Họ là ai quá ồn ào ?

Phải đâu là khách tâm giao chung tình. (3520)

Cớ chi chè chén linh đình,

Sỗ sàng ăn nói, coi khinh chủ nhà ?

Thế Viễn Mạc nhún vai thưa :

Làm gì tân khách, của thừa ấy chăng ?

Từ khi vắng mặt phụ thân,

Bọn sâu mọt ấy lố lăng học đòi.

Kẻ đòi quyền bính tiếm ngôi,

Tranh nhau muốn cưới mẹ tôi giành quyền.

Nhố nhăn một lũ đảo điên,

Bất tài mà muốn chuyện tiên chuyện thần. (3530)

Chúng ép mẹ trả lời nhanh,

Lựa trong bọn chúng làm chồng làm vua.

Mẹ con nhẫn nhục chẳng vừa,

Cớ rắng dệt tấm vải chờ liệm ông.*

Ngày dệt đêm tháo tấm khăn,

Ba năm chờ đợi con thành lớn khôn.

Nào hay kẻ mách sự tình,

Nên chúng thúc ép mẹ rắng chọn ngay!

Ngày ngày bọn chúng đến đây,

Bắt bò cừu thịt, rượu say ngà ngà. (3540)

Nói năng hổn tạp ba hoa,

Bầy công tử bột, chẳng ra giống gì !

Quán Trí Thần nữ tiếp lời :

Tiếc thay Uy Lĩnh cuộc đời phong ba,

Có người phép tắc sớm trưa,

Quyền uy khuôn phép vào thưa tâu trình.

Có đâu ăn nói nhố nhăng !

Ngày về Uy Lĩnh, ngày tàn bọn ni.

Phần con triệu tập ngày mai,

Hội Đồng bô lão tóc dài An Kinh. (3550)

Luận bàn luật lệ nước non,

Luận bàn những chuyện thiệt hơn quê nhà.

Nói ra cho rõ ý ta,

Ngừng ngay những chuyện gian tà lố lăng.

Đòi chấm dứt việc cầu hôn,

Dứt ngay phung phí sớm hôm tiệc tùng.

Rồi con xin một thuyền buồm,

Hai mươi thủy thủ tinh thông lái chèo.

Đi thăm xứ sở kết giao,

Xưa cùng Uy Lĩnh đổi trao ngọn cờ. (3560)

Đến Phy Lô vua Ninh Tô,*

Từ sau cuộc chiến thành Troa đã về,

Sau đến Xích Bạc gần kề,

Nơi Mai Ninh Lạc hội thề cất binh.

Hỏi tin cha mọi sự tình,

Sau là Hoàng tử nhân danh ngôi truyền,

Mộ quân hòa hiếu kết liên,

Để khi nguy biến ta liền có nhau.

Mỉm cười Mân Thế: Ví dầu,

Cha con có mất nơi đâu cũng là. (3570)

Cầm quyền con nối ngôi cha,

Thì con bổn phận tang ma mộ phần.

Lễ nghi báo thiệp xa gần,

Lễ tang rồi mới gả chồng mẹ con.

Mưu cao vây cánh sẵn sàng,

Thanh trừng những bọn kiêu quân dữ dắn,

Rồi lên nối nghiệp phụ thân,

Tuổi con khôn lớn, không còn trẻ thơ.

Con ơi dân tộc đang chờ,

Chờ con khôn lớn đến giờ ra uy. (3580)

Lời ăn tiếng nói nghĩ suy,

Kết liên cùng với người ngay kẻ hiền.

Thế Viễn Mạc mới tỏ tường :

Rắng lời bác dặn như tình cha con,

Con nào chẳng dám quên ơn,

Quyết làm theo những khuyên lơn dặn lời.

Mời bác ở lại đây chơi,

Tiệc vui, tắm rửa, nghỉ ngơi vài ngày.

Thật là hân hạnh con đây,

Được bác khuyên bảo, việc nay rõ ràng. (3590)

Chân thành một tấm lòng con,

Những lời của bác, sắt son nhớ đời.

Quán Trí Thần nữ mỉm cười :

Ta đà có việc, nay thời phải đi.

Hẹn rắng dịp khác lắm khi,

Sẽ mời đến xứ bác chơi tâm tình.

Nay con đối xử thật lòng,

Rồi đây con sẽ vẹn thành chí cao.

Nói rồi Thàn nữ vụt mau,

Như chim bay vút lối nào ai hay. (3600)

Thế Viễn Mạc bỗng diệu kỳ,

Trái tim dũng cảm từ khi gặp người.

Trở nên cương nghị tươi vui,

Nhớ cha tha thiết, mong mai cha về,

Giật mình mới tỉnh hôn mê,

Biết rắng Thần nữ gần kề khuyên răn.

Thế Viễn Mạc trở lại bàn,

Bước chân dũng cảm đầy lòng tự tin.

Trên bàn rượu tiệc tàn dần,

Người người im lặng, tiếng đàn du ca. (3610)

Giọng trầm kể chuyện thành Troa,

Lời rắng thảm hại thuyền An Kinh về.

Tiếng đàn u uất đêm khuya,

Tiếng đàn vang vọng não nề lầu cao.

Nhã Lan ngồi tựa song đào,

U buồn lặng lẽ bước vào sân trong.

Hai nàng thị nữ hầu bên,

Khăn tơ đen xỏa, dáng buồn thương đau.

Trước bàn tiệc, chẳng hỏi chào,

Trách người du tử vì sao hát lời : (3620)

Phù Minh, người biết bao bài,(Phémios)

Thơ thần phép lạ, thơ người hùng anh,

Thơ nàng chung thủy kiên trinh,

Buồn chi mà hát chuyện mình chưa hay.

Người chưa về được quê này,

Chưa tin tức đã bịa ngay chuyện buồn.

Cho người lòng dạ héo hon,

Cho người nhung nhớ hao mòn tiếc thương.

Tim ta sống với anh hùng,

Chiến công vang dội trời gần, đất xa. (3630)

Thế Viễn Mạc đứng dậy thưa :

Mẹ ơi ! Chớ cản tiếng ca thật lòng,

Du tử hát nỗi chờ mong,

Tâm tình vọng cổ, lời mong đợi chờ.

Lỗi này chẳng phải người thơ,

Mà nơi Thần Dớt nên giờ nơi đâu ?

Mười năm xương tráng máu đào,

Chiến công thắng trận mà sao chưa về ?

Hoài lang vọng cổ mong chờ,*

Mà lời ca mới, tiếng thơ của lòng. (3640)

Mẹ ơi vì mãi chờ mong,

Không còn nghe tiếng tâm tình khổ đau.

Một mình Uy Lĩnh thôi sao ?

Còn bao người nữa, biết bao bạn bè ?

Mẹ ơi, khung cửi tơ xe,

Phận người phụ nữ là nghề dệt thêu,

Coi nhà chăm sóc trước sau,

Sai hầu, sai tớ, vườn rau, thú đồng,

Nói năng là chuyện đàn ông.

Con là gia chủ của gia trang này. (3650)

Ngạc nhiên : con lạ lùng thay,

Nói lời chửng chạc dạn dày lớn khôn.

Quay đi, nàng lại bước lên,

Trên lầu nắm nghỉ, mắt buồn lệ sa:

Uy Lĩnh chàng ở đâu xa.

Tháng ngày em đợi, sắc hoa mỏi mòn.

Yêu chàng một dạ sắt son,

Tin chàng sẽ thoát nguy nan trở về.

Trong mơ Thần nữ gần kề,

Khép đôi mắt biếc vào mê gặp người. (3660)

Dưới sân to nhỏ tiếng lời,

Một bầy nham nhở, tranh đòi bước lên.

Tranh nhau đòi ngủ với nàng :

Nàng mau chọn gấp bạn vàng đêm nay.

Thế Viễn Mạc cản lối ngay,

Tay cầm chuôi kiếm, lời đầy sắt đanh:

Hỡi người quý phái cầu hôn,

Nói lời xàm xỡ chẳng còn ra chi,

Chọn người đạo hạnh đức tài,

Danh gia ai chọn lựa người lưu manh. (3670)

Hôm nay yến tiệc đã xong,

Chẳng còn gì để tranh giành ba hoa.

Đã nghe du tử đàn ca,

Lời thơ truyền cảm giao hòa thần ban.

Ngày mai trời rạng sáng lên,

Chúng ta sẽ họp bàn bên quản trường.

Hôm nay tôi quyết định rắng :

Các người rời khỏi lầu trang bây giờ,

Mỗi ngày một bữa tiệc to,

Thay nhau thết đãi, ngày lo một người. (3680)

Có đâu ăn mãi nhà tôi,

Bò, cừu, dê, lợn cũng rồi hết đi.

Một ngày trăm kẻ đến đây,

Vô duyên, vô cớ chẳng ai mọc mời.

Tiếng tôi vang dội đến trời,

Thần Vương Dớt thấu đến người thẳng ngay.

Một ngày Thần sẽ ra tay,

Các người sẽ chết nơi này chẳng sai.

Búa Thần sấm sét y lời,

Báo thù, trả oán luật trời đấy thôi. (3690)

Mọi người cắn lưỡi, ríu môi,

Vì Thế Viễn Mạc nói lời sắt đanh.

An Ti Nốt trả lời rắng :(Antinoos)

Thế Viễn Mạc, phải có Thần dạy ngươi,

Bỗng đâu đanh thép nên lời,

Đuổi người, to tiếng dạy đời đêm nay.

Ngày nào Thần Dớt chưa hay,

Chưa ban Vương trượng, lễ bày sắc phong,

Làm Vua An Thạch nối dòng,

Dù người dòng dõi cũng cần lễ nghi. (3700)

Thế Viễn Mạc đáp tức thì :

Hỡi An Ti Nốt ta lời thẳng ngay,

Dù người có nỗi giận chi,

Lời ta trung trực thật hay tỏ tường.

Ngày mai Thần Dớt ban phong,

Ta rất sung sướng sẵn sàng lên ngôi,

Đặt người ở địa vị tôi,

Có can chịu được những lời lố lăng ?

Các người quyền quí ai bắng,

Cớ chi thô bỉ, chẳng danh dự gì ? (3710)

Nhà Vua Uy Lĩnh ra đi,

Đoàn quân thắng trận cớ chi chưa về ?

Dẫu người lưu lạc bến bờ,

Phải tìm tung tích, mong chờ hỏi thăm.

Dầu Vua có mất đi chăng,

Trung thành tang lễ, Hội Đồng phong vương.

Việc nước hội họp luận bàn,

Đâu phải giành giật như phiên chợ chiều.

Trung chính, biết phận, biết điều,

Phép nhà, luật nước bấy nhiêu bia lời ? (3720)

Ngôi Vua chưa phong cho tôi,

Tôi là gia chủ của ngôi lầu này,

Dưới tay điều khiển tớ thầy,

Đãi đắng yến tiệc do tay tôi mời.

Âu Ry Mạc đứng tiếp lời : (Eurymaque)

Thế Viễn Mạc hỡi tương lai người còn,

Nắm trên đầu gối các Thần,

Các Thần quyết định chính danh phận người,

Làm Vua An Thạch lên ngôi,

Trị vì vùng đảo biển trời sóng xanh. (3730)

Gia tài Uy Lĩnh rành rành,

Người là gia chủ, ai giành ai tranh.

Chẳng ai cướp bóc bạo hành,

Phép nhà, lệ nước thanh trừng kẻ gian.

Riêng ta muốn hỏi người rắng :

Là ai khách lạ đến thăm ban chiều ?

Từ đâu, quê quán nơi đâu ?

Có cho tin tức ra sao cha người ?

Hay là tìm đến nợ đòi,

Cớ sao chợt đến, đi coi bất thường ? (3740)

Xem rắng chẳng phải kẻ gian,

Cớ sao mà chẳng luận bàn xưng danh ?
 
 

Thế Viễn Mạc trả lời rắng :

Âu Ry Mạc hỡi, chẳng tin tức gì,

Ngày về quê của cha tôi,

Tôi không tin nữa những lời quẩn quanh,

Mẹ tôi cầu bói lên đồng,

Tiên tri ăn nói quàn xiên ra gì !

Riêng người gặp buổi chiều nay,

Người buôn bán cũ, bạn này của cha. (3750)

Tà Phô đảo phía Bắc kia,

Tên là Mân Thế con Vua giống dòng.

Vua An Chi Lộ, Tà Phiên,

Đến đây giao hảo bán buôn lâu rồi.

Thế Viễn Mạc nói dấu người,

Nhưng lòng thầm nghĩ theo lời Thần khuyên.

Tiệc tàn, lời nói lạnh lùng,

Lòng đà hổ thẹn chẳng buồn nghe ca.

Bọn cầu hôn lảng dần ra,

Ai về nhà nấy, tiệc đà dần tang. (3760)

Thế Viễn Mạc bước lên thềm

O Ri Khuê vú già đem đuốc hầu.(Euryclée)

Vú trung thành ở đã lâu,

Từng chăm Uy Lĩnh thương yêu mọi người,

Vú già hầu hạ lâu đời,

Lão Vương chuộc với hai mươi con bò.

Đuốc hồng soi sáng lầu cao,

Áo quần sẵn nếp, chăn đào, gối bông.

Rồi quay ra đóng cửa phòng,

Suốt đêm Viễn Mạc trong lòng lo toan. (3770)

Chăn da cừu đắp lên mình,

Nghĩ suy về cuộc viễn trình ngày mai. (3772)
 
 

Kỳ tới: Thi ca khúc XI :Hội Đồng An Thạch và ngày khởi hành Thế Viễn Mạc
 : (Câu 3773 đến 4222)
 

CHÚ THÍCH

3561. Pylos La Sablonneuse ở Triphyle phía Bắc Alphée và Nam Néda.

3460). Chơi cờ Hy Lạp thời cổ đại chơi cờ bắng đá cuội, cờ marelle hay dames.

3476. Dân Taphiens người đảo Taphos ở phía Bắc đảo Ithaque, bờ biển Đông Acarmanie và trong các đảo Đông Nam Leucade. Dân sống nghề thương thuyền buôn bán.

3534. Thành ngữ "Tấm khăn Pénélope" trong văn học thế giới chỉ một việc làm cần mẫn chăm chỉ, nhưng không đem lại một kết quả hay ích lợi gì, do việc Pénéloppe dệt tấm vải liệm cha chồng, ngày dệt, đêm tháo ra trong suốt ba năm, để chờ chồng về, đợi con trưởng thành, tương đương với thành ngữ Việt Nam "Dã tràng xe cát biển Đông "

3639 Tôi dịch thành " hoài lang vọng cổ" để phù hợp với tâm tình người Việt Nam, diễn tả lòng thương nhớ người đi chiến trận chưa về. Vọng cổ hoài lang do ông Cao Văn Lầu sáng tác trong Đờn ca tài tử Nam Bộ đầu thế kỷ 20).