THI
CA KHÚC VI
DIOMÈDE
VÀ GLAUCOS TỪ TRẬN TUYẾN ĐỐI NGHỊCH NHÌN NHAU ANH EM
HECTOR
TỪ BIỆT ANDROMAQUE
(câu
3678 đến 4260)
Thi ca khúc VI có
hai đoạn thú vị là hai dũng tướng hai trận tuyến đối
nghịch là Diomède và Glaucos nhìn nhau anh em, vì hai gia đình
đã kết giao thân thiết và cuộc chia ly của một đôi trai
tài gái sắc giữa chiến tranh Hector và Andromaque, có thể gọi
đoạn này là một Chinh Phụ Ngâm Khúc của Tây Phương.
Quân Hy Lạp đánh
mạnh, quân Troie rút lui về thủ thành. Theo lời khuyên của
em là Hélénos, Hector vào thành Troie nói với mẹ là Hoàng Hậu
Hécube cầu Thần nữ Athéné. Diomède và Glaucos hai tướng hai
trận tuyến đối nghịch nhận mặt nhau anh em giữa chiến
trường. Diomède sau khi được Athéné phò trì đã đánh lần
lượt với ba thần Aphrodite, Apollion, Arès, bổng dưng thấy
một người không sợ mình, tiến đến giao chiến. Diomède
phân vân hỏi ra cặn kẻ. Glaucos trả lời hóa ra là hai gia
đình là bạn thân từng kết nghĩa với nhau. Diomède đề nghị
tránh đánh nhau và hẹn khi hòa bình sẽ đến thăm nhau. Hector
về cung gặp mẹ, mẹ mời rượu ngon chàng không uống vì
sợ rượu làm biếng nhác chân tay, nghe lời Hector, hoàng hậu
Hécube cùng các phụ nữ thành Troie dâng khăn tơ, cúng tế
cầu Thần nữ nơi đền Athéné ở Thượng thành. Hector đến
cung Pâris, gọi Pâris từ bỏ loan phòng với Hélène ra chiến
trận. Hélène gặp Hector, mỉa mai cho thân phận mình về thành
Troie bị mọi người khinh rẻ. Hector về cung không thấy vợ,
Hector ra cổng thành Scée gặp vợ Andromaque và thị tỳ đang
bế con. Nàng thở than với chồng., bày tỏ nỗi lo lắng. Bé
Astyanax thấy cha đội mũ đồng có lông đuôi ngựa sợ hãi
khóc thét, chàng cởi mũ xuống ẳm con, khấn thần. Hector ra
chiến trường gặp Pâris cùng đến.
Troa Yên còn với
An Kinh,
Cùng trong trận
chiến đấu tranh kinh hoàng,
Chiến trường
dàn rộng khắp vùng,
Tang thương nội
cỏ hoa đồng máu xương (3680)
Người thù, kẻ
địch phóng thương,
Sông Si Giang tới
chiến trường Sa Măng.(Simois, Scamandre)
An Bắc, công tử
Thế Môn, (Ajax con Telamon)
Lũy thành quân
đội An Kinh anh hùng.
Đoạt thêm chiến
thắng lẫy lừng,
Thắng tướng Thạch
Các hùng cường lớn cao. (Thraces)
An Ca Mạc, công
tử Âu Sao, (Acamas con Eussoros)
Ngọn lao An Bắc
phóng vào mũ lông,
Xuyên qua trán đến
thấu xương,
Ngọn lao đồng
nhọn, bóng sương mắt mờ (3690)
Đỗ Mạnh giết
An Chi Lô (Diomède, Axylos)
Tựu Các công tử,
nhà bờ An Khê,(Teuthras, Arisbè)
Sang giàu yêu mến
dân quê,
Chiêu Anh Các đón
khách về tiếp tân.
Nhưng nào thoát
khỏi tử thần,
Ngọn lao An Bắc
đổ ầm chiến xa.
Kẻ hầu Ca Lộc
ngựa xe, (Calésios)
Cả hai chủ tớ
hồn lìa về âm.
Âu Dương tiến
đánh anh em (Euryale)
Đề Lộc, Ô Thước
đoạt cùng giáp khiên (Drésos, Ophdltios) (3700)
Ai Bối, Đa Sốt
trận tiền, (Aisépos, Pédasos)
Con Băng Lan Nữ
nàng tiên suối ngàn. (Abarbarée)
Yêu Ban Long con
Lao Đông (Boucolion, Laomédon)
Thuở chàng mục
tử đồng xanh chăn cừu.
Cùng nàng ân ái
thương yêu,
Sinh đôi trẻ chốn
rừng sâu non ngàn.
Mê Xích công tử
đánh tung (Euryale con Mécistée),
Cánh tay rơi rụng,
đoạt cùng giáp khiên.
Ất Ty bị cắt
cổ ngang (Astyalos)
Bởi Bồ Ly Tích
bạo tàn tiến công. (Polypoetès) (3710)
Uy Lĩnh vung mũi
lao đồng, (Ulysse)
Giết Phi Đinh Tuấn
trong vòng giao tranh (Pydytès)
Tựu Khê giết
tướng An Tôn, (Teucer, Aréton)
An Thy giết Áp
thương đồng sáng choang. (Anthiloque, Ablère)
An Gia thống lĩnh
An Kinh, (Agamemnon)
Giết Âu La Tuấn,
lầu trang sông dài,(Elatos)
Bờ Sa Ni thủy
xanh tươi (Satnioeis)
Bá Đa Sóc chém
ngang vai giáp mình. (Pédasos)
Phi La Cốt chạy
lòng vòng, (Phylacos)
Dưới lao Lai Tổ
anh hùng ngã lăn. (Leitos) (3720)
Âu Dương Linh giết
Mê Lăng (Eurypyle, Mélanthe)
Mai Ninh bắt An
Đắc tù binh mang về. (Ménélas, Adrestos)
Chiến xa vướng
phải cành me,
Đôi ngựa sợ
hãi, bánh xe gảy càng.
Ngựa chạy đằng
ngựa về thành,
An Đắc té xuống
miệng ăn đất bùn,
Mai Ninh Lạc chỉa
trường thương,
An Đắc quỳ lạy
bò càn ỉ ôi :
An Lê công tử
tha tôi (Atrée)
Tôi xin chuộc
mạng, tiền tài xứng danh (3730)
Cha tôi giàu
có bạc vàng,
Bao đồ đồng
sắt, nghìn tiền trả công.
Muốn gì Ngài
cũng vừa lòng,
Cha tôi đều
sẵn chuộc thân sống còn.
Giá nào cũng
trả thương con,
Biết tin tôi
sống nơi thuyền An Kinh.
Nghe lời Mai Lạc
chạnh lòng,
Toan giao hầu cận
tù binh về thuyền.
An Gia Vương bỗng
tiến lên:
Mai Ninh em hỡi
chớ phiền âu lo.
Em từng hậu
đãi khách Troa,
Khách đà cướp
vợ, cướp ta bạc vàng.
Phản bội Thần
đã thề nguyền,
Thì nay cái chết
trả muôn hận này.
Chẳng ai thoát
chết nơi đây,
Bào thai bụng
mẹ chẳng tày thoát thân.
Giết Ý Long
cả kinh thành,
Chẳng gì hối
tiếc lưu tăm tiếng đời.
Lời anh nói lòng
bồi hồi,
Mai đẩy An Đắc
xa nơi chẳng nhìn (3750)
An Gia Vương đâm
vào hông,
An Đắc ngã xuống,
lao đâm nhát bồi.
Ninh Tô cất tiếng
truyền lời: (Nestor)
Đa Niên anh dũng
chớ lơi kẻ thù,
Chớ mất công
nhặt quân nhu,
Giáp binh lao
kiếm khiên thu về thuyền.
Hãy xông giết
địch trận tiền,
Thắng xong rồi
mới nhặt binh giáp thù.
Một lời chí lý
dứt câu,
Toàn quân dũng
cảm hàng đầu xung phong. (3760)
Quân Troa lùi bước
thủ thành,
Lòng nao núng, tướng
bỏ thân chiến trường.
Anh Quân, Hải Tô
quây quần,( Énée, Hector)
Hạ Linh Công giỏi
bói điềm tiên tri. (Hélénos)*
Con vua Biam lắm
anh tài,
Cùng Cát Tâm đó
sinh đôi một bào. (Cassandre):
Anh Quân và anh
Hải Tô,
Các anh trách
nhiệm cơ đồ toàn quân,
Troa Yên, Ly Siên
đấu tranh,
Nhìn vào dũng
tướng anh hùng làm gương. (3770)
Hãy dừng phòng
tuyến tiền biên,
Dọc ngang cổ
võ quân liền phản công.
Chớ nên rút
chạy kinh hoàng,
Về trong tay
vợ để quân địch cười.
Khi các trận
tuyến vững rồi,
Phần em ra sức
các nơi giữ thành.
Việc còn khẩn
cấp cho anh,
Hãy về nhanh
gấp báo cùng mẫu thân,
Các phu nhân
đến thượng thành,
Cầu Quán Trí
Tuệ, nữ thần phúc ân (3780)
Mở kho khăn
đẹp hiến dâng,
Đặt trên đầu
gối tượng thần tóc mây.
Cùng lời cầu
khẩn tỏ bày,
Bê cái tròn
tuổi mười hai mâm đồng.
Xin Ngài thương
xót từ tâm,
Cho thành ta với
dân lành Troa Yên.
Cho ta thắng
được An Kinh,
Ty Đê công tử
bại vong chiến trường.
An Sinh ta ít
sợ hơn, (Achille)
Con Thần Thê
Túc chẳng còn xuất quân (3790)
Nhưng tướng
Đỗ Mạnh dữ dằn,
Chẳng ai có
thể đo lường hăng say.
Hải Tô nghe chí
lý thay,
Dừng xe xuống
ngựa ra ngay trận tiền,
Khích lòng quân
sĩ quay mình,
Ra thân đối mặt
đấu cùng Đạt Liên.
Đạt Liên ngừng
tiến trận tiền,
Bảo nhau có một
thần linh giáng trần.
Hải Tô lên tiếng
dục quân :
Troa quân anh
dũng, đồng minh kiên cường. (3800)
Hãy xứng đáng
là anh hùng,
Xả thân sống
chết đấu tranh chiến trường.
Tôi đi hội
kiến triều đình,
Luận bàn việc
nước hiện tình đấu tranh,
Và mời tất
cả phu nhân,
Đến đền Quán
Trí cúng dâng cầu thần.
Hải Tô dong ngựa
về thành,
Mũ vàng sáng chói,
khiên đồng giáp da,
Trong lúc đó chiến
trường xa,
Đối đầu Đỗ
tướng quân là Lỗ Cô. (Glaucos) (3810)
Hy Mã công tử
bước vô (Hippolochos),
Hiên ngang chẳng
sợ chẳng chờ nguy nan.
Đỗ tướng
quân thấy lạ lùng :
Hãy xưng danh
hỡi anh hùng thế gian,
Ta chưa từng
thấy chiến trường,
Ai đi đối mặt
với cùng lao ta,
Khốn khổ thay
cho mẹ cha,
Kẻ nào muốn
đến cùng qua đối đầu.
Nếu người
thần tự trời cao,*
Thì ta chẳng
muốn đấu lao cùng người (3820)
Di Ất tôn tử
tốt vời, (Dryas)
Vua Ly Cước
dám đánh roi các thần. (Lycurgue)
Cho nên mệnh
yểu dành phần,
Một ngày các
Nhũ Mẫu Thần Rượu say,(Hyades Dionysos)
Sợ Ni Sơn hổn
loạn đi,
Nhà vua sai lính
dùng dây quất bò,
Đuổi đám rước
Thần Rượu Nho,(Dionysos, Bacchus)
Các nàng vất
trượng vắt giò trốn đi,
Bắc Cước kinh
hoảng ngờ chi, (Dionysos)
Nhảy ngay xuống
biển biết gì tỉnh say (3830)
Sợ người trần
lại gặp may,
Nữ Thần Thê
Túc ôm ngay vào lòng,(Thétis)
Từ Thủy cung
kiện Thiên Đình,
Cồ Nốt Thần
tử phạt sinh mắt mù,
Thế là vua chẳng
sống lâu,
Bởi vì đã
ghét cay sâu các thần.
Với Thần ta
chẳng đấu tranh,
Nhưng mi là một
người trần thế gian,
Ăn hoa quả hãy
lại gần,
Ta cho nhanh chóng
đời tàn âm cung (3840)
Hy Mã công tử
mới rằng :
Đỗ đại hiệp
muốn hỏi tên cớ gì ?
Con người như
lá rừng cây,
Mấy ai hỏi
tuổi tên chi lá rừng ?
Lá rơi mặt
đất thu tàn,
Xuân sang lại
nẩy lá non trên cành.
Con người thế
hệ này sinh,
Bao thế hệ
khác lụn tàn chết đi.
Nhưng người
muốn hỏi ta thì,
Nói cho người
biết ta đây cội nguồn (3850)
Đạt Quốc sâu
thẳm rừng xanh, (Argos)
Giỏi chăn nuôi
ngựa kinh thành Âu Kha,(Ephyre)
Chi Bích tài
trí làm vua, (Sisyphe)
Âu Ôn công tử
tên là Lỗ Cô (Eole)
Sinh Băng Phong
nối cơ đồ. (Bellérophon).
Lỗ Cô bị nạn
ngựa đua tàn đời.(Glaucos, ông cố cùng tên)
Gian hùng Băng
Lễ cướp ngôi,(Belléros)
Băng Phong giết
chết rồi rời quê hương.
Ty Thanh vua Bối
ân cần, (Tirinthe, Proitos)
An Thê vợ Bối
lòng yêu thương chàng.(Antée) (3860)
Tức tình ngay
thẳng Băng Phong,
Cho nên lại
nói dối cùng phu quân :
Bối Tổ sẽ
chết một ngày,
Nếu chàng không
giết hay đày Băng Phong.
Hắn ta yêu mến
thiếp thần,
Hắn muốn cùng
thiếp thành thân ở đời.
Dù lòng thiếp
chẳng nào vui.
Bối Tổ nghe
nói ghen lời giận căm.
Hắn ta muốn
giết Băng Phong.
Ngại ngần lo
sợ thần linh phạt vì (3870)
Nên gửi đi
sang Ly Chi (Lycie)
Tính nhờ cha
vợ ra tay giết giùm.
Trao thư mật
mã thông đồng.
Băng Phong đi
đến kinh thành Ly Chi.
Nhưng nhờ thần
phúc hộ trì,
Nhà vua hậu
đãi tiệc khi thật lòng;
Chín ngày thết
chín bò non.
Ngày thứ mười
lúc bình minh nắng hồng.
Mới là xem thẻ
thư đồng,
Mới hay lời
dặn của chàng rể kia (3880)
Bèn cử đi giết
Si Me (Chimère)
Mượn tay yêu
quái hang khe giết người.
Đầu sư tử
rắn đuôi dài.
Mình dê khủng
kiếp thở hơi lửa hồng.
Băng Phong lại
lập chiến công.
Giết con quái
vật nhờ thần chở che.
Lần hai Sô Lâm
trận về,(Solymes)
Lại đánh thắng
gặc sơn khê núi rừng.
Lần ba đánh
A Ma Dôn,(Amazones)
Chiến trường
đẩm máu khải hoàn quang vinh. (3890)
Trở về vua
chận phục binh,
Trăm quân tinh
nhuệ đặt trong hiểm nghèo.
Chẳng ai thoát
chết về triều.
Băng Phong lại
thắng, trăm điều vẻ vang.
Vua Ly Chi kính
phục chàng,
Gả công chúa
nửa giang sơn gia tài.
Nhà vua chia đất
cho người,
Ruộng vườn
hoa trái tốt tươi cánh đồng.
Công chúa sinh
ra ba con,
Ý Sơn, Hy Mã
và nàng Lã My (Isandre, Hippolochos, Laodamie)(3900)
Lã My với Dớt
thụ thai,
Sinh Thạc Đông
đó tài trai mũ đồng. (Sarpédon)
Băng Phong bị
phạt bởi thần,
Cỡi ngựa bay
đáp vào vùng hoang khai (Pégase)
Đông An Sư tránh
loài người, (Alion)
Ý Sơn chết
nơi chiến trường (Isandre)
Lã My, Đạt
Thế bắn tên lìa đời *
Hy Mã đã sinh
ra tôi,
Gửi tôi ra trận
giúp người thành Troa (3910)
Khuyên tôi can
đảm xông pha,
Chớ làm xấu
hổ ông cha giống nòi.
Âu Kha vinh dự
giúp người.(Ephyre)
Tôi mang dòng
máu sáng ngời quang vinh.
Đỗ Mạnh nghe
nói vui mừng,
Phóng lao cắm
đất, nói cùng tướng quân.
Vậy tôi, anh
chỗ tình thân,
Cha ông xưa đã
thề nguyền cùng nhau.
Cung Ô Nê đã
đổi trao,(Oenée)
Vật quà lưu
niệm kết giao tâm đồng (3920)
Hai mươi ngày
tiếp cung đình,
Ô Nê tặng chiếc
đai đồng tím than,
Băng Phong tặng
chìếc cúp vàng,
Hai quai, tôi
đã chẳng mang theo mình.
Cha tôi, tôi
nhớ gì chăng ?
Tôi còn thơ
ấu chiến trường ra đi.
Thành Thép tử
trận gian nguy,
Bây giờ ta nhận
nhau vì anh em.
Đạt Quốc tôi
sẽ tiếp anh,
Còn tôi, tôi
sẽ thăm thành Ly Si (3930)
Chúng ta tránh
đánh nhau đi,
Hẹn ngày tái
ngộ mai đây hòa bình.
Chúng ta trao
đổi chân tình,
Trao nhau vũ khí
một lòng tình thân.
Cha ông ta đã
anh em,
Giờ đây ta
cũng một lòng cùng nhau.
Nói rồi tay nắm
đổi trao,
Lao đồng xe ngựa
bên nhau chân thành.
Ngọn lao Lỗ Cô
bằng vàng.
Lao tướng Đỗ
Mạnh bằng đồng sáng choang. (3940)
Thiên Đình Dớt
cũng bằng lòng,
Trăm con bò đổi
chín con chẳng màng.
Hải Tô đến cổng
Khuê, thành,
Gia đình binh sĩ,
vây quanh hỏi dồn.
Người hỏi tin
tức các con,
Tin em thân thuộc,
tin anh, tin chồng.
Người mong cầu
nguyện các Thần.
Bao nhiêu lo lắng
tương thân đang chờ.
Hải Tô về cung
điện vua,
Đi qua các cổng
cung hoa chạm hình (3950)
Năm mươi phòng
ốc dãy liền,
Cung các hoàng tử
sống cùng vợ con.
Bên kia một quảng
sân trong,
Mười hai cung các
riêng phòng công nương,
Cùng các phò mã
sống chung.
Hải Tô vào gặp
mẫu thân tường trình.
Lan Khuê công chúa
đưa chàng (Laodicée)
Cầm tay Hoàng Hậu,
hỏi con: Cớ gì ?
Giả từ chiến
tuyến về đây,
Biết con mòn
mỏi vòng vây quân thù (3960)
Biết lòng con
muốn nguyện cầu,
Mong ơn Thần
Dớt đền cao thượng thành,
Mẹ cho con rượu
mật ong,
Con cầu Thần
Dớt, các Thần Thiên Sơn,
Rồi con hãy
uống cạn chung,
Sức con mỏi
mệt rượu ngon phục hồi.
Bao ngày con đuối
sức rồi,
Ra thân che chỡ
đền bồi song thân.
Hải Tô mũ trụ
ánh đồng,
Trả lời : Mẹ
chớ cho con rượu này, (3970)
Rượu say biếng
nhác chân tay,
Chẳng còn sáng
suốt chỉ huy chiến trường.
Con không dám
khấn Thần Vương,
Tay chưa thanh
tịnh miệng nồng men cay.
Máu còn say,
hồn ngất ngây,
Lời cầu hoen
ố như mây mịt mờ.
Mẹ ơi hãy đến
điện thờ,
Quán Trí Thần
Nữ cậy nhờ chiến công.
Hãy mời tất
cả phu nhân,
Dầu hương,
khăn lụa y trang vật quà (3980)
Bên Thần Nữ
tóc thước tha,
Đặt bên đầu
gối gấm hoa dâng Ngài.
Lụa tơ quý
báu nhất đời,
Khấn lời cúng
tế mười hai con bò,
Bê con một tuổi
còn tơ,
Chưa đặt lên
ách, cậy nhờ xót thương.
Che chỡ kinh
thành Troa Yên,
Trẻ thơ phụ
nữ thoát cơn bạo tàn.
Ty Đê công tử
dã man,
Ngọn lao khủng
kiếp kinh hoàng ba quân. (3990)
Phần mẹ đến
đền cầu Thần,
Con đến Bá
Lộc khuyên răn tỏ bày. (Pâris)
Biết hắn có
nghe con đây,
Đất còn sụp
đổ nơi này dưới chân.
Hắn nuôi mối
hận Thiên Đình,
Vua Biam hào hiệp
với cùng các con.
Chỉ khi hắn
cõi Diêm Vương,
Hồn con mới
hết nỗi buồn tang ma
Huê Cúc vào chốn
cung nhà, (Hoàng Hậu Hécube)
Sai các thị nữ
truyền ra lệnh mời (4000)
Các phu nhân khắp
mọi nơi,
Hẹn cùng nhau đến
cầu nơi thượng thành.
Hoàng hậu bước
xuống hương phòng,
Tơ thêu gấm dệt
các nàng Si nương (Sidoniennes)*
Bá Lộc từng chất
cả thuyền,
Đem về cùng với
Hạ Lan ngọc ngà.
Huê Cúc mang một
khăn tơ,
Chiếc khăn đẹp
nhất thêu hoa tế thần,
Quán Trí Tuệ ban
phúc ân,
Khăn tơ lóng lánh
như ngàn sao đêm (4010)
Khăn thêu đẹp
nhất thế gian,
Để nơi quý giá
dành riêng tế thần.
Rồi cùng thị
nữ một đoàn,
Theo sau các đấng
phu nhân đến đền.
Đền Quán Trí
Tuệ, đỉnh Thượng Thành,
Khải Các nương
tử, má hồng khói hương,(Kissès)
Thể Nương, An
Thế phu nhân, (Théano, Anténor)
Mở ra cửa lớn
cung nghinh nữ đoàn,
Thể Nương nghi
lễ hương trầm,
Đưa tay xướng
lễ, hoà đồng tiếng thanh. (4020)
Thể Nương nâng
lấy tấm khăn,
Cung nghinh đặt
phủ đùi Thần tóc xinh,
Rồi quỳ cầu
khẩn thần linh:
Quán Trí bảo
vệ kinh thành chúng con,
Linh thiên cầu
khẩn Nữ Thần,
Bẻ lao Đỗ
Mạnh, tan tành bại vong,
Ngã gục trước
cổng Khuê Thành,
Chúng con sẽ
cúng bê non, mâm đồng.
Mười hai bê
cái tuổi tròn,
Chưa đặt cương
ách , cầu ơn an lành (4030)
Xót thương cho
cả Troa dân,
Toàn dân phụ
nữ và cùng cháu con.
Mặc lời khấn
hứa lăng nhăng,
Quán Trí chẳng
nhận, tỉnh không lắc đầu.
Trong khi phụ nữ
nguyện cầu,
Hải Tô đã đến
cung lầu Lộc Sơn (Alexandre, Pâris)
Vua cho xây dựng
đẹp xinh,
Bởi bàn tay thợ
khéo tinh nhất vùng,
Cạnh cung Hải
Tô, cung Biam,
Sảnh đường,
phòng rộng, sân vuông, thượng thành(4040)
Tay cầm lao mười
hai tầm,
Mũi đồng sáng
chói vòng vàng cán lao,
Gặp An Lộc Sơn
chùi lau,(Alexandre, Pâris)
Khiên đồng, giáp
sắt, thử nào nỏ cong.
Hạ Lan giữa đám
nữ nhân,
Thị tỳ thêu dệt
hoa vân vẽ vời.
Hải Tô trách cứ
nặng lời :
Quỉ yêu, mi
đã gây đời hờn căm;
Vì nàng xinh
đẹp gì chăng ?
Bao nhiêu quân
tướng nhọc công quanh thành. (4050)
Tường cao dốc
thẳm liều mình,
Chính mi nguyên
cớ chiến tranh oán hờn,
Chính mi, đấu
địch thề nguyền,
Thế mà bỏ
trốn chiến trường về đây,
Nào mau hãy đứng
dậy ngay,
Bảo vệ thành
phố tro bay lửa hồng.
Bá Lộc lên tiếng
nói rằng:
Hải Tô anh nói
chẳng lầm, đúng sai,
Hãy nghe em nói
một lời,
Nếu em phải
ở nghỉ ngơi trong phòng, (4060)
Chẳng vì hèn
nhát trong lòng,
Mà vì thương
tích phải cần nghỉ ngơi,
Bây giờ em sẵn
sàng rồi,
Sẽ ra chiến
đấu bên ngoài cùng anh.
Để em mặc
lấy giáp binh,
Đi sau, em sẽ
theo anh ra thành.
Hạ Lan cất tiếng
nhẹ nhàn,
Mỉa mai cay đắng
dịu dàng mật thơm :
Thân tôi chó
cái nào hơn,
Bao điều xấu
hại, con tim lạnh lùng (4070)
Mẹ tôi sinh
có ngờ rằng :
Thân tôi cơn
lốc núi ngàn mang đi,
Hay cơn sóng
dữ biển khơi,
Xui tôi đến
một phận đời trớ trêu.
Các Thần hành
hạ khổ đau,
Đời tôi đang
được yêu thương bên chồng.
Người chồng
quý phái yêu cưng,
Giờ đây nguyền
rũa xem khinh bao người.
Kẻ nào phá
hoại thân tôi,
Rồi đây phải
trả quả đời đắng cay (4780)
Anh chồng tôi,
hãy ngồi đây,
Vì anh gánh vác
trên vai nhọc nhằn.
Vì tôi chó cái
đáng khinh,
Là nguyên nhân
của em anh lạc lầm.
Trời cho số
mệnh gian truân,
Mà mai sau các
thi nhân viết đời.
Hải Tô Mũ Trụ
trả lời :
Hạ Lan, việc
gấp tôi rồi phải đi.
Cám ơn nàng
có lời mời,
Tôi còn trăm
nỗi, chẳng vui được gì ! (4090)
Tim tôi lửa
bỏng dầu sôi,
Thủ thành, cấp
cứu, giúp người Troa dân.
Đang cần có
mặt tướng quân,
Phận nàng thì
hãy dục chồng ra đi.
Ra ngay cố thủ
thành trì,
Tôi còn trở
lại cung tôi gặp nàng
Vợ tôi, con
dại cưu mang,
Tôi còn có biết
ngày còn với nhau,
Chiến trường
ai biết ra sao ?
Nếu Thần xui
ngọn lao nào An Kinh. (4100)
Nói rồi cất bước
đi nhanh,
Về tư cung cũng
ở gần cạnh bên.
Vắng An Độ Mai,
nhà không (Andromaque)
Nàng đang trên
đỉnh cổng thành thở than,
Cùng con trai với
vú em,
Hải Tô trước
cửa hỏi thăm kẻ hầu,
Hỏi : An Độ
Mai đi đâu ?
Hỏi nàng :
đến các em dâu, em chồng ?
Đền Quán Trí,
các phu nhân,
Cầu nguôi cơn
giận khiếp kinh Nữ Thần. (4110)
Quản gia mới trả
lời rằng :
Công nương chẳng
đến các em dâu chồng.
Chẳng đi cầu
khẩn Nữ Thần.
Công nương đi
hướng cổng thành Ý Long.
Nghe tin thua trận
lui binh,
Nóng lòng vội
chạy như điên ra thành.
Thị tỳ bế
bé theo chân.
Hải Tô nghe nói
vội vàng đi nhanh.
Cổng Khuê qua lối
phố phường,
Gặp nàng An Độ
dịu hiền và con (4120)
Công chúa con vua
Âu Thông,( Éétion)
Ở vùng Phà Cổ,
Thép thành, Chi Liên,(Placos, Thèbe, Ciliciens)
Gặp nàng mừng
rỡ ôm chầm,
Thị tỳ âu yếm
bến con trong lòng.
Sa Măng Tử tên
dòng sông,
Sông xanh che chở
cánh đồng vùng Troa,
Bé xinh như một
vì sao,
Hoàng Đô Vương
tên nghĩa là Vua kinh thành,(Astyanax)
Mỉm cười trông
thấy bé con,
Riêng nàng nước
mắt chứa chan ôm chồng: (4130)
Chàng ơi, chớ
có liều thân,
Thương em góa
bụa, con còn ấu thơ,
Nếu chàng xuất
trận bây giờ,
An Kinh xông đến
lao cờ vây quanh,
Nếu chàng chiến
địa hủy thân,
Thì em chỉ biết
quyên sinh theo chàng.
Còn vui gì để
mơ màng,
Nếu chàng số
mệnh sẽ tàn chốn nao !
Đời em toàn
những thảm sầu,
Chẳng cha, chẳng
mẹ, đớn đau tâm tình. (4140)
Cha em giết bởi
An Sinh, (Achille)
Tay thần tàn
phá kinh thành Chi Liên,
Thành Thép bảy
cổng cao tường,
Cha Âu Thông
chết đau thương vô cùng.
Đốt thân cùng
với giáp binh,
Đắp lên một
nấm nộ con cây trồng.
Cung đình thiếp
bảy anh em,
Một ngày tử
trận, Diêm Vương hồn chầu.
An Sinh cướp
sạch còn đâu,
Bầy bò chân
lớn, bầy cừu trắng lông (4150)
Mẹ em bị bắt
trên đồng,
Đòi phần chuộc
mạng tiền nong bạc vàng.
Nhưng khi được
thả về cung,
Đạt Thế Mỹ
đã bắn tên lìa đời.*
Mình em trơ trọi
chàng ơi !
Chàng là: cha,
mẹ, là người anh thương !
Là phu quân đức
vẹn toàn,
Chàng ơi ở
lại cùng em chớ rời.
Chớ làm con
dại mồ côi,
Vợ chàng góa
bụa rồi đời đau thương (4160)
Bên cây vả
hãy thêm quân,
Nơi này hiểm
yếu lũy thành dễ leo,
Gấp ba lần
chốn hiểm nghèo,
Địch quân dũng
cảm toan trèo tiến công.
An Bắc, Anh Đô,
An Gia Vương,
Mai Lạc, Đỗ
Mạnh tấn công nơi này.
Hải Tô thương
cảm, thẳng ngay :
Nàng ơi, đau
xót điều này nghĩ suy,
Cho ta lo lắng
hiểm nguy,
Những điều
bất hạnh mai này xảy ra (4170)
Nếu ta hèn chẳng
xông pha,
Nàng ơi sao thể
nhìn ta cõi trần,
Nhìn họ hàng,
nhìn toàn dân,
Lòng anh chẳng
muốn làm thân phận hèn.
Xưa nay ta đã
từng quen,
Hàng đầu anh
dũng giữ gìn tiếng danh.
Cho vua cha và
cho anh,
Chính anh linh
cảm ngày tàn Ý Long,
Vua Cha Biam và
cả toàn dân,
Sẽ ra tro bụi
trước quân địch thù (4180)
Vua, anh em gục
trước lao,
Điều anh lo
nghĩ, nhục nào trước tiên,
Một tên giáp
trụ An Kinh,
Bắt nàng trong
tiếng khóc than đau lòng.
Ngày này hạnh
phúc đã tàn,
Bắt về Đạt
Quốc dưới quyến khiến sai (Argos),
Nàng phải dệt
vải ngày ngày,
Mai Khê, đội
nước lòng đầy xót thương. (Messeis)
Thấy nàng nước
mắt chứa chan,
Người ta khẽ
bảo: vợ chàng Hải Tô
(4190)
Những ngày chiến
đấu thành Troa,
Người anh dũng
nhất cơ đồ tiêu tan.
Nàng càng tủi
phận khốn cùng,
Nàng không còn
có người chồng cưu mang.
Thoát đời nô
lệ nhọc nhằn,
Nàng ơi thà
chết để đừng thấy chi,
Đất đen phủ
kín sầu bi,
Không nghe nàng
khóc, lôi đi kẻ thù..
Nói rồi bế đứa
con thơ,
Trẻ thơ khóc thét,
nép vô nữ tỳ (4200)
Nhìn cha sợ hãi
mấy khi,
Thấy cha mũ trụ,
lông đuôi ngựa hồng.
Lắc lư trên mũ
sáng choang,
Cha cười mẹ cũng
rộn lòng yêu thương.
Hải Tô đặt mũ
xuống nền,
Chàng bồng con
dại, ru êm trong lòng.
Rồi đưa lên khấn
cầu thần :
Dớt và các
đấng thiêng liêng hộ trì.
Cho con tôi đứa
bé này,
Khắp dân Troa
sẽ vang đầy tiếng danh (4210)
Như tôi vô địch
sức thần,
Oai hùng ngự
trị Ý Long uy quyền,
Xin ngày mai sáng
huy hoàng.
Nó từ chiến
trận vinh quang trở về,
Người người
thán phục tỉ tê,
Nó còn hơn bố
trăm bề chiến công.
Giết quân thù
cướp giáp đồng,
Về dâng cho
mẹ một lòng sướng vui.
Trao con cho vợ
ngậm ngùi,
Ôm con trong ngực
thơm cười lệ tuôn (4220)
Vuốt ve âu yếm
tay nàng,
Bảo rằng : Đau
khổ, chớ buồn vì anh.
Bao giờ số
mệnh đã dành,
Dạ Đài ai thoát
được chăng kiếp người,
Nhát hèn, gan
dạ cõi đời !
Hãy về chăm
chỉ việc nơi gia đình,
Dệt tơ, sai
khiến gia nhân,
Chiến tranh là
việc đàn ông thành này.
Nói rồi đội
mũ ra đi,
Nàng về, quay lại
mắt mi lệ tràn (4230)
Nàng về chốn
vắng lầu trang,
Nàng than thở nhớ
thương chồng Hải Tô.
Chàng ra đi, sợ
âu lo,
Sợ chàng có thoát
trận đồ An Kinh.
Bá Lộc chẳng ở
lâu hơn,
Giáp đồng, lao
nhọn, xăm xăm đến thành.
Ngựa phi hối hả,
nhanh nhanh,
Ngựa nuôi lúa
mạch lâu trong trại chuồng.
Tháo dây cương
dạo trên đồng,
Quen đi tắm mát
bên sông, suối nguồn (4240)
Dận chân trước
đợi yên cương,
Mũ đồng, giáp
sắt, vai choàng khiên, gươm.
Theo bầy lên đỉnh
Bắc Lam,
Mũ đồng lấp
lánh như ngàn ánh sao,
Hí vui chân bước
phi mau,
Nửa đường Bá
Lộc, gặp chào Hải Tô.
Mới cùng lìa vợ,
vừa vô :
Anh ơi ! em
chẳng mất giờ trể chi,
Đến vừa kịp
lúc anh đây.
Hải Tô Mũ Trụ,
thẳng ngay khuyên lời : (4250)
Xấu hổ thay để
nhạo cười,
Bao nhiêu dân chúng
khổ đời vì mi,
Chớ nên buông
thả mặc chi,
Chẳng còn ý chí
, mặc gì nổi trôi.
Ta chẳng muốn
trách mi hoài,
Vì mi sức lực
trên đời kém ai ?
Nhanh lên phòng
thủ kịp thời.
Nếu Dớt cho phép
cõi trời vinh danh.
Trước mắt đuổi
quân An Kinh,
Ra khỏi xứ sở
thanh bình quê hương (4260)
(Còn tiếp)
Thi ca khúc VII
Hector chiến đấu
với Ajax. Hưu chiến thu dọn chiến trường. (câu 4261-4746)
CHÚ THÍCH
*Hélénos : có
tài tiên tri như Cassandre, theo Virgil về sau nối ngôi Pyrrhus
thành vua Épire và lấy chị dâu Andromaque làm Hoàng Hậu. Con
Andromaque và Hector bị Néoptolème con Achille giật lấy trong
tay, nếm xuống thành chết.
* Diomède không có
Thần nữ Athéné bên cạnh nên nghi ngờ không biết thần hay
người.
*Nhũ mẫu Dionysos
là Hyades trở thành một chòm sao trong bầu trời. Nyzéion núi
thánh nơi hành hương. Các Hyades thường cầm cây Tửu Trượng
(Thyrses) là cây gậy phía trên còn cành lá, có treo một quả
thông và có dây nho leo. Dionysos thường đi khắp thế gian với
chiếc xe do con báo kéo và đoàn tùy tùng, có ông già Silène
ngồi ngất ngưỡng trên lưng lừa, kè kè bình rượu, có thần
Satyres nửa dê nửa người, râu tóc bờm xòm, đầu có sừng,
tay người chân đuôi dê, tánh nết thô lỗ, ham mê tửu sắc,
đeo trước ngực dương vật bằng gỗ, thần Pan và bảy nàng
tiên Hyades, là tiên nuôi Dionysos thuở bé. Đám rước đi đến
đâu cờ trống, nhảy múa dậm dật, ầm ỉ, đó là đức
tin tín đồ thần Rượu Nho. Một ngày đám rước tới xứ
Thrace của vua Lycurgue. Vua cho rằng nếu để Thần Dionysos cư
ngụ dân chúng sẽ hư hỏng vì say sưa, nên ra lệnh quân sĩ
đuổi đám rước, đánh bằng roi quất bò.. Họ bỏ chạy
tán loạn bình rượu bị đập vỡ. Dionysos đường cùng nhảy
xuống biển, nữ thần Thétis ôm mang về thủy cung. Dionysos
kiện lên Olympe, được các thần giúp đỡ, dùng pháp thuật
trả thù làm vua Lycurguemắt mờ, mất trí, điên rồ, thấy
con trai trưởng tưởng là cây nho chém chết. Dionysos làm đất
đai khô cằn, kiệt quệ. Dân chúng cầu thần dược sấm truyền
phải trừng trị kẻ xúc phạm. Vua Lycurgue bị xử tứ mã
phanh thây. Từ đó xứ Thrace trở lại phì nhiêu, dân chúng
trở lại thờ thần Dionysos. Cuối vườn Luxembourg Paris có
nhóm tượng đám rước Dionysos, nghi lễ này là nguồn gốc
hài kịch.
*Amazones : bộ
tộc hoàn toàn do đàn bà cai trị.
*Sisyphe : con Eole
vua Thessalie thành lập Corinthe, chuyện thần thoại Sisyphe đẩy
tảg đá lên dốc AcrôCorinthe để xây dựng đền, cứ lên
dốc đá lại tuột xuống, việc làm hoài công. Glaucos cùng
tên ông cố đang đối thoại với Diomède, chết vì xe đổ
trong cuộc đua, bị chính ngựa ông ăn thịt.
*Ellérophos theo thần
thoại dùng ngựa có cánh Pégase đi lên núi Olympe nên bị các
thần thù ghét trừng phạt.
*Sidoniennes, vải
vóc vùng Tyr nay là Liban nổi tiếng ngày
xưa.
*Ngày xưa người
Hy Lạp cho rằng đàn bà chết bất ngờ (bệnh tim) là do Artémis,
nữ thần săn bắn bắn tên. Đàn ông chết bất ngờ do Apollon
bắn tên.
*Achille sau khi đánh
thành Troie không được quay sang đánh đồng bằng chung quanh
và các thành nhỏ cướp lương thực nuôi quân. Cha Andromaque
và 7 anh em đều bị giết chết, mẹ được trả tiền chuộc
mạng xong chết bất ngờ. |