Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
(bài 4)

Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC III
HỘI THỀ * TỪ THÀNH TROIE NHÌN XUỐNG TRẬN ĐIA *
PÂRIS, MÉNÉLAS ĐẤU NHAU

Hai bên dàn quân, Pâris (Alexandre) ra trận nhưng lại chùng bước trước Ménélas lùi mau về hàng. Hector mắng em, hèn nhát, Pâris ra điều kiện song đấu: Nếu Ménélas thắng sẽ mang Hélène về cùng vàng bạc, vua Priam bồi thường chiến tranh. Pâris thắng Hy Lạp sẽ rút quân. Được nữ thần Iris báo tin, Hélène rời phòng khuê đi ra cổng Scée. Hélène đứng từ thanh cao nhìn xuống cùng triều đình Troie, vua Priam hỏi Hélène từng tên tướng lĩnh Hy Lạp vua Agamemnon, Ménélas, Ulysse, Ajax.. Hai bên tế lễ thề, vua Priam và vua Agamemmnon chủ tế, tế một con cừu trắng và một con cừu đen, đọc lời thề nguyền, bên nào thắng sẽ mang Hélène về . Hai bên rút thăm, Pâris phóng lao trước, Ménélas dùng khiên đỡ, thanh lao mũi cong bị chặn ngang rơi trước khiên đồng. Ménélas phong lao trúng khiên Pâris, xuyên thân giáp đồng rách chiếc áo mặc bên trong, nhưng may Pâris gập mình, nên thoát chết trong tơ tóc. Ménélas nhảy đến rút gươm chém đầu, chiếc gươm trúng đỉnh mũ cao, gãy ra ba bốn mảnh, nhưng Pâris không sao. Ménélas xông vào nắm mũ đồng kéo núm chòm lông ngựa phía sau kéo dài, kéo lôi về phía quân Achéens, Pâris ngã xuống, mũ quai da bò dưới cổ làm ngạt thở phì phò, nhưng Thần nữ Aphrodite can thiệp giải cứu làm bựt đứt chiếc quai. Ménélas kéo chơi vơi chao mình, vất mũ cho quân sĩ, chàng nắm được chiếc lao đồng toan kết liễu đời Pâris, nhưng Vénus hoá mây sương mù, phủ âm u trận địa; đưa Pâris thoát kẻ thù trong tấc gang đưa chàng về khuê phòng trong thành Troia. Aphrodite hóa ra bà lão quen biết đi đón Hélène, nhưng nàng nhìn ra chiếc cổ thần tiên của nữ thần Aphrodite nên mắng nhiếc, Thần nữ gào lên nổi giận, Hélène hoảng sợ đi theo về gặp Pâris, nàng mỉa mai Pâris thua trận, nhưng Paris lại chinh phục nàng, sức người trần không thể cưỡng lại ý thần.. Trên chiến địa Ménélas tìm Pâris nhưng không ai trông thấy. Agamemnon đòi thi hành lời ước thề.

Platon trong Théogonie đã ca tụng các câu thơ sánh các lão quan triều Vua Priam như tiếng ve kêu. Quintilien (VIII. 24, 21) viết : những câu thơ ca tụng sắc đẹp tuyệt vời của Hélène không bởi Pâris, người bắt cóc, mê hoăc nàng, cũng không bởi một thanh niên, một người dân mà bởi các lão quan hiền triết nhất ngồi bên cạnh vua Priam.

Nhiều sách thời cổ đại của Cicéron, Quintilien, Sénèque.. đã ca tụng đoạn Homère tả chân dung hai nhà hùng biện Ménélas và Ulysse đi thương thuyết việc trả lại Hélène. Cicéron, Brutus. I.10,13. Quintilien, Inst Or XI I, 10, 24. Sénèque Ep.XI.

Hai bên chiến trận dàn quân, (1595)
Mỗi đoàn quân tiếp quanh bên tướng hùng.
Quân Troa dũng tiến hô vang,
Như bầy bạch hạc dưới tầng trời cao,
Như tan đông lạnh mưa rào,
Tiếng vang như sóng bay vào Đại Dương (1600)
Tiếng vang như cõi âm hồn,
Bích Mê chiến địa, sương đêm tử thần, (Pygmées)
Lòng như sôi sục hờn căm,
Bất bình bao nỗi vây thành hãm công.
An Kinh tiến bước lặng câm, (Achéens)
Nghe như tiếng thở, như lòng tương thân.
Từ trên đỉnh núi mây vần,
Gió mùa Nam Tố mang sương giá về, (Notos)*
Mục đồng ngại bóng sương che,
Khó phòng kẻ trộm thừa cơ tung hoành. (1610)
Không xa tầm ném đá nhìn,
Bước chân binh sĩ mù tung bụi mờ,
Đội hình quân tiến tung cờ,
Hai bên giáp trận tinh mơ trên đồng.
An Lộc tiến trước đoàn quân;(Alexandre, Pâris)
Hiên ngang dũng mãnh như thần oai nghiêm.
Tấm da báo phủ vai bên,
Vai mang cung nỏ, lưng mang kiếm đồng.
Hai trường thương xốc bên hông,
Đầu mang một chiếc mũ đồng sáng choang. (1620)
Đạt Liên dũng tướng mắt lườm, (Argiens, Achéens)
Lòng thầm hứa hẹn một phen tranh hùng,
Mai Ninh đi trước đoàn quân, (Ménélas)
Bước chân như chúa sơn lâm hào hùng.
Như nhìn mồi trước vuốt nanh,
Trông An Lộc bước tới nơi,
Hội cơ hứa hẹn lòng vui báo thù.
Xuống xe chực sẵn hàng đầu,
An Lộc trông thấy, lùi mau về hàng. (1630)
Như người sợ rắn chắn ngang,
Bên triền thung lũng, núi ngàn cây xanh,
Mặt như chàm đổ chân run,
Chẳng còn khí phách anh hùng hiên ngang.
Hải Tô lên tiếng trách em,(Hector)
Bực mình nhìn thấy, thẹn lòng chẳng vui:
Bá Lộc Hèn, chẳng hổ ngươi, (Maupâris)
Điên cuồng vì gái nay thời nhát gan,
Chết đi cho đỡ nhục thân,
Lòng ta chẳng muốn trên thành nhìn trông. (1640)
An Kinh cười ngạo ba quân,
Anh hùng rơm ruột trống không bề ngoài.
Ngày nào vượt biển ra khơi,
Cướp nàng Hoàng hậu xứ người đất xa,
Gây bao thảm họa cho cha,
Cho thành, cho nước, cho nhà điêu linh.
Giờ đây sỉ nhục tiếng danh,
Món quà Vệ Nữ tiếng tăm nhọc nhằn.
Dân Troa tủi hổ sự tình,
Dù quan tài đá có dành cho ngươi.* (1650)
Cũng không chôn hết tiếng đời.
An Lộc lên tiếng trả lời cho anh:
Hải Tô, anh đã nhìn lầm,
Lời anh vừa đúng vừa không sự tình.
Lời anh như nhát búa tầm,
Bửa vào thân củi thẳng thừng đôi tay.
Trong lòng anh chẳng sợ chi,
Cho nên trách cứ những gì thần ban.
Nữ Thần Vệ Nữ ngọc vàng,
Đã ban ân huệ một nàng mỹ nhân. (1660)
Chỉ là ý muốn của thần,
Người trần ta chẳng thể mong được gì !
Bây giờ anh muốn tôi đây,
Đánh Mai Ninh Lạc tướng tài địch quân.
Hãy mời ngồi xuống ba quân,
Troa Yên cùng với An Kinh đối hàng.
Tôi, Mai Ninh Lộc sẵn sàng,
Ai người chiến thắng sẽ mang về cùng
Nàng Hạ Lan và ngọc vàng,
Từ nay chấm dứt tương tàn chiến tranh. (1670)
Hai bên tế lễ vật sinh,
Ai về nước nấy giao tình đệ huynh.
Người Troa Yên ở xứ mình,
Người An Kinh sẽ rút quân trở về.
Hải Tô đồng ý hội thề,
Bước ra chiến tuyến cận kề đường ranh.
Cầm thương nhọn ra hiệu quân,
Troa Yên dừng lại, nín thinh đợi chờ.
An Kinh giương nỏ cung hờ,
Nỏ giàn, bẩy đá mong giờ ra tay. (1680)
An Gia Vương thét: Ngừng tay,
Đạt Liên, buông nỏ lắng nghe từng lời,
Hải Tô muốn nói những gì.
Nỏ cung hạ xuống nghỉ ngơi đợi chờ,
Hải Tô đứng giữa nói to :
An Kinh cùng với quân Troa giáp hùng .
Hãy nghe lời An Lộc bàn,
Là người duyên cớ, cội nguồn chiến tranh.
Mời quân An Kinh, Troa Yên,
Xếp gươm giáo lại ngồi trên đất màu. (1690)
Dự xem một trận đấu nhau,
Mai Ninh, An Lộc chiến bào giao tranh (Ménélas, Alexandre)
Ai thắng sẽ được Hạ Lan,
Cùng bao vàng bạc của nàng mang theo.
Chúng ta tế lễ cùng nhau,
Giữ tình bằng hữu mai sau vững bền.
Mọi người nghe tiếng lặng im,
Mai Ninh cất tiếng vang lên chiến trường :
Lắng nghe, tôi cũng đồng lòng,
Dù đau thương đã sâu hằn con tim. (1700)
Đạt Liên cùng với Troa Yên,
Hai bên đau khổ cuộc tranh chấp này,
Dù An Lộc bắt đầu đây,
Đôi ta số phận hôm nay rõ ràng,
Chết nhục hay sống vinh quang,
Hai ta chẳng có còn con đường nào.
Người mang đến hai con cừu,
Con đực lông trắng, cái màu lông đen,
Tế Đất Mẹ, Tế Thái Dương,
Một cừu tế Dớt là phần của ta. (1710
Hãy mời nhà vua Biam ra,
Tự tay thọc huyết, lời già thiêng liêng.
Khấn thề cùng với Thần Vương,
Lời già sau trước vững bền thẳng ngay,
Người trẻ nông nổi đổi thay,
Người già xếp đặt cho hay đôi đường.
Nghe lời An Kinh, Troa Yên,
Vui mừng được dự đấu trường quang vinh.
Ngựa xe sắp xếp thẳng hàng,
Đôi bên cởi giáp, giáo giàn đặt bên. (1720
Chiến trường ngồi chật như nêm,
Hải Tô nhanh chóng báo tin về thành.
Người mang cừu tế lễ thần,
Người tâu chủ lễ dự phần vua Biam.
Về phía An Gia Đại Vương,
Sai Thân Ty Bộc về thuyền mang lên. (Thaltybios)
Con cừu tế lễ Thần Vương,
Thị vệ bày biện dọn bàn kết hoa.
Y Bích bay đến cung nhà, (Iris)*
Hạ Lan Đôi Cánh Tay Ngà truyền tin: (1730)
Sứ Thần biến hóa dạng hình,
Chị dâu, công chúa vợ chàng Hạ Can (Hélicaon).
Con trai An Thế lão công. (Anténor)
Lạc Khuê xinh đẹp nhất thành vua Biam; (Laodicè)
Nàng tìm đến gặp Hạ Lan.
Bên khung dệt lớn tư cung của nàng.
Áo choàng nàng dệt huy hoàng,
Cho ai ở chốn chiến trường đấu tranh.
Troa Yên luyện mã giữ thành,
An Kinh chiến trận kiếm cung giáp đồng. (1740)
Vì nàng chinh chiến ngổn ngang,
Khổ đau Thần Chiến gieo tang tóc đời.
Bên nàng Y Bích cất lời (Iris) :
Em ơi ! hãy đến xem nơi cổng thành,
Chưa bao giờ thấy lạ lùng,
Troa Yên luyện mã, An Kinh giáp đồng.
Bao năm giao trận chiến tranh,
Nay ngồi im lặng, khiên nằm dựa bên.
Lao ghim xuống đất thẳng hàng,
Mai Ninh, An Lộc sẽ cùng đấu nhau (Ménélas, Alexandre). (1750)
Vì em trận đấu thương đau,
Người thắng sẽ gọi em theo, vợ chàng.
Y Bích gieo rắc trong lòng,
Hạ Lan biết mấy nỗi buồn bao la.
Nhớ chồng xưa, nhớ mẹ cha.
Nhớ kinh thành cũ, xa lìa bao năm.
Hạ Lan vội vả choàng khăn,
Bước nhanh về phía cổng thành tháp canh.
Hai nàng thị nữ theo bên,
Ái Cơ cùng với Ly Minh mắt thuyền.(Aithré, Clymène). (1760)
Tiến qua đường rộng kinh thành.
Tháp Khuê tụ hội cung đình vua Biam (Scée, Priam)
Lão thần Ban Tuất, Hỉ Tâm (Panthoos, Hikétaon),
Thy Minh, Lâm Bộ và cùng Chí Tô (Thymoetès, Lampos, Clytios)*
U Ca Lê và An Thế Nô (Oucalégon và Anténor)
Hiền thần hai vị tóc tơ luận bàn.
Tuổi già sức chẳng ra quân,
Cung đình mưu lược, triều binh hội về.
Như trên cây giữa mùa hè,
Vọng từ rừng núi tiếng ve vang lừng. (1770)
Thoảng nghe vọng tiếng lưng chừng,
Tiếng ai trong sáng như cành huệ lan.
Troa Yên Cơ Mật đang bàn,
Ngừng tai, một giọng cất vang ngọt ngào :
Thật là phẩn nộ biết bao,
Troa Yên luyện mã, chiến bào An Kinh,
Bao năm đau khổ triền miên,
Vì nàng sắc đẹp thần tiên mơ màng,
Dù cho vẻ đẹp tiên nương,
Cũng nên trao trả về thuyền An Kinh. (1780)
Vì nàng còn ở đây chăng,
Còn bao hiểm họa nhọc nhằn cháu con.
Vua Biam gọi nàng Hạ Lan:
Đến đây con hãy ngồi gần bên ta,
Để xem chồng cũ bạn xưa,
Anh em binh tướng, cùng là người thân.
Riêng ta, con chẳng lỗi lầm,
Các Thần xui khiến chiến tranh tương tàn.
Nói ta nghe các tướng quân,
Là ai tên các anh hùng An Kinh. (1790)
Là ai vị tướng cao thanh,
Ta chưa từng thấy anh hùng nào hơn.
Xem chừng một vị Quân Vương.
Hạ Lan nhẹ đáp lời buôn mênh mang:
Muôn tâu cùng đấng Nhạc Vương,
Lòng tôi kính sợ bước đường đến đây.
Lòng tôi đã chết từ ngày,
Theo con Ngài để lòng đầy nhớ thương.
Khuê phòng xa mẹ và con,
Tuổi còn thơ ấu đồng niên bạn bè. (1800)
Đau lòng mơ tưởng ngày về,
Khi sầu đối bóng não nề xót xa,
Bây giờ Ngài hỏi xin thưa,
An Gia An Trích chính là vị Vua,(Agamemnon Atride)
Uy quyền kính phục gần xa,
Vị vua nhân đức xông pha chiến trường.
Là anh chồng của tệ nhân.
Lão Vương nhìn dáng oai hùng phục ngay :
An Trích tướng mạo đẹp thay !
Con người phúc hậu, dáng đi như thần. (1810)
Phúc thay quân sĩ An Kinh,
Có người thủ lãnh chiến trường oai nghi.
Ta từng đến vùng Phi Chi (Phrygie),
Một miền trù phú đồng đầy vườn nho,
Người Phi Chi cưỡi ngựa hồ,
Ô Trê, Mỹ Động quân cơ như thần. (Otrée, Mygdon)
Dọc sông Hằng Các đóng quân,(Sangarios)
Ta đà thầm phục binh hùng Mã Đông (Amazones),
Thế mà nay sánh chiến trường,
Đông hơn gấp mấy, binh thuyền An Kinh. (1820)
Rồi nhìn Uy Lĩnh hỏi rằng: (Ulysse)
Con ơi, hãy nói ta chàng là ai?
Ngực vuông hùng dũng rộng vai,
So vua An Trích thấp nơi cái đầu.
Vũ khí dựng xuống đất mầu,
Như sơn dương đứng hàng đầu đoàn quân,
Lông dày hùng dũng bước chân,
Dọc ngang đi khắp đoàn quân bạch cừu.
Hạ Lan nhẹ đáp lòng sầu:
Ấy chàng Uy Lĩnh nghìn mưu đa tài. (1830)
Tôn tử Lã Đạt giống nòi (Laerte),
Sinh trưởng An Thạch dù nơi đất cằn.(Ithaque)
Binh cơ mưu lược lào thông,
Thông minh tài trí ai bằng, khôn ngoan.
An Thế Nô đáp lời nàng: (Anténor)
Phu nhân, đúng vậy, ai bằng tướng quân,
Uy Lĩnh từng đến bản doanh,
Với Mai Ninh Lạc cùng trong sứ đoàn.
Tôi từng hậu đãi sảnh đường,
Uy nghi tướng mạo, khôn ngoan tiếng lời. (1840)
Troa Yên hội họp tiếp người,
Mai Ninh Lạc đứng đôi vai hơn chàng,
Nhưng khi ngồi xuống rõ ràng,
Uy Lĩnh hùng dũng phi thường oai nghiêm.
So tài ăn nói phần hơn,
Mai Ninh nói ít rõ ràng đơn sơ,
Nhưng ngay thẳng đích mong chờ,
Dù chàng còn trẻ nhất so mọi người.
Khi Uy Lĩnh đứng ngỏ lời :
Chừng như bất động, mắt nơi đất bằng. (1850)
Tay cầm ngôn trượng không rung,
Chẳng nghiêng phía trước chẳng chùng phía sau,
Một giây bất động ngu ngơ,
Tưởng chừng oán hận lời chờ thốt lên,
Chẳng ngu ngơ, chẳng oán hờn,
Lời chàng tâm huyết từ lòng ngực sâu,
Lời như hoa tuyết đông sầu,
Tiếng vang sang sảng từng câu trầm hùng,
Mấy ai so sánh cho bằng,
Uy Lĩnh hùng tráng, nhìn càng kính yêu. (1860)
Nhìn phía An Bắc tiếp theo, (Ajax)
Vua Biam lại hỏi : Người cao tướng hùng,
Đầu hơn các tướng An Kinh,
Ngực to lưng rộng ai bằng sánh vai ?
Hạ Lan vén khăn tơ dài :
Ấy là An Bắc, anh tài An Kinh.
Anh Đô Mai đứng cạnh bên (Idoménée),
Một hàng tướng lĩnh anh hùng Kiết Toa (Crétois).
Các chàng thường đến cung tôi,
Mai Ninh Lạc vẫn thường mời tiếp tân. (1870)
Tôi từng biết rõ họ tên,
Biết từng danh tướng An Kinh anh hùng.
Nhưng đoàn quân đứng xa thành,
Tôi không còn thấy rõ ràng một ai.
Cát Tô luyện mã biệt tài ,(Castor)
Bôn Lực dũng cảm một tay côn quyền.(Pollux)
Các em cùng mẹ sinh thành,
Chắc không tham dự công thành hôm nay,
Chắc không vượt biển trận này,
Vì tôi mà ngại lòng ray rứt buồn. (1880)
Vì tôi em đã ngậm hờn,
Không rời đất mẹ sinh thành La Ni (Laconie).
Hai người vệ quan ra đi,
Mang vật cúng tế đến nơi lễ đàn :
Hai con cừu, rượu cúng thần,
Ép từ cây trái trong bình da dê.
Y Đê quan vệ mang về,(Idée)
Một đỉnh chân vạc, sáng loe cúp vàng.
Đến gần bên nhà vua Biam,
Cúi đầu kính cẩn tâu trình Lão Vương: (1890)
Tâu Hoàng Thượng Lao Mê Đông (Laomédon),
Xin Ngài cử tế hai bên chiến trường.
Troa Yên luyện mã kỵ quân,
An Kinh nhung phục giáp binh thề bồi.
Dựng giàn tế lễ Thần Trời,
Vật sinh cúng tế khấn lời linh thiêng.
An Lộc, Mai Ninh giao tranh,
Đấu trường lao nhọn để dành mỹ nhân,
Kẻ chiến thắng sẽ được phần,
Mỹ nhân vàng ngọc nữ trang theo cùng. (1900)
Lời danh dự kết tình thân,
Chúng ta sẽ ở đất lành chốn quê,
Còn họ sẽ rút thuyền về,
Đạt Gô ngựa tốt, An Huề mỹ nhân. (Argos, Achaie)
Lão Vương nghe nói vui mừng,
Truyền mang xe ngựa xuống đàn hội quân.
An Thế Công cũng nhanh chân (Anténor),
Hai xe song mã xuống thành cổng Khuê.
Ngựa xe nhanh bước tiến về,
Giữa hàng quân tướng chờ thề tế sinh. (1910)
Đoàn xe ngừng trước ba quân,
Vua Biam xuống trước, triều thần theo sau.
An Gia đứng dậy vái chào, (Agamemnon)
Bên cạnh Uy Lĩnh cùng nhau đến đàn.
Trước bàn quan vệ lễ dâng,
Khấn thề danh các thần linh, lòng thành,
Rồi pha mỹ tửu vào bình,
Trước bàn Thần, các vua cùng rửa tay.
An Trích rút dao bên đai,
Trước đầu cừu cắt một vài nhúm lông. (1920)
Quan vệ kính cẩn chia phần,
Mọi người đón lấy tay nâng cầu Thần:
Cầu Dớt đấng Phụ Vương,
Ngôi cao cai trị khắp miền Y Đa. (Ida)
Vinh quang, cao cả, chói lòa,
Thái Dương mắt thấy, tai nghe cõi trần.
Đất, Sông cho đến cõi âm.
Hai Ngài trừng phạt linh hồn trần gian.
Về đây chứng giám lời nguyền:
Nếu An Lộc thắng dành phần Hạ Lan. (1930)
Cùng bao của cải nữ trang,
Chúng tôi sẽ rút xuống thuyền về ngay,
Nếu Mai Lạc giết An Lộc đi,
Hạ Lan, vàng bạc từ nay theo chồng.
Bồi thường chiến phí An Kinh,
Nếu vua Biam và các con không bồi thường,
Dù cho An Lộc bại vong,
Chúng tôi tiếp tục đấu tranh đến cùng,
Đến ngày tàn cuộc chiến tranh,
Chúng tôi nhất quyết hạ thành mới cam. (1940)
Nói rồi cắt cổ vật sinh,
Phơi trên mặt đất thân mình rẩy run,
Gươm đồng dứt kiếp phù sinh,
Quan vệ rót rượu vào chung mọi người.
Nâng lên cùng khấn một lời :
Vinh quang thần Dớt cõi trời Thiên Sơn,
Chư Thần bất tử tỏ tường,
Chúng tôi cầu khấn hai bên tỏ bày,
Kẻ nào phá ước nguyện này,
Óc đầu sẽ nát rải nơi trận tiền. (1950)
Như rượu tung rải trước đàn,
Họ và con trước trận tiền bại vong.
Vợ con gánh chịu số phần,
Vào tay kẻ thắng cuộc phân tranh này.
Thần Tử Cồ Nốt đỉnh mây,(Cronos Zeus)
Phân vân chẳng muốn chứng ngay lời nguyền.
Sau khi xong lễ tế thần,
Vua Biam vội vã lui chân về thành. :
Lắng nghe chiến sĩ hai bên,
Troa Yên cùng với An Kinh giáp đồng. (1960)
Tôi xin từ giả về thành,
Chẳng còn lòng để thấy nhìn đấu nhau.
Con tôi, Mai Ninh ra sao ?
Dớt, Chư Thần ở ngôi cao định rồi.
Một trong hai tàn cuộc đời,
Đã dành số phận, kiếp người thảm thê.

Sai cất vật sinh vào xe,
Vua lên xe mã đi về thành Troa.
An Thế Công cũng bước theo,
Đôi xe lăn bánh đi vô cổng thành. (1970)
Hải Tô, Uy Lĩnh đôi bên,
Cùng nhau đo đạc vạch biên đấu trường.
Mũ đồng hai phiếu số phần,
Rút thăm ai được phóng thanh lao đầu.
Vươn hai tay trước khẩn cầu,
Ba quân lập lại từng câu khấn thần:*
Cầu xin Dớt, đấng Phụ Vương,
Ngôi cao cai trị khắp miền Y Đa,
Vinh quang cao cả chói lòa,
Xin Ngài chứng giám cuộc đua tranh tài. (1980)
Cuộc tranh chấp của chúng tôi,
Dạ Đài dù cõi Thần ai bỏ mình,(Hadès)
Chúng tôi giao kết đệ huynh,
Một lòng thệ nguyện thủy chung lòng thành.
Hải Tô cầm mũ sáng choang,
Quay mắt, lắc mạnh hai thanh thẻ đồng.
Số phần Bá Lộc ra nhanh,(Pâris, Alexandre)
Thế là chàng được phóng lần đầu tiên.
Bá Lộc ra trận đấu trường,
Giáp đồng, khiên sắt, một thanh lao dài. (1990)
Nhảy lên chiến mã vương vai,
Giáp đồng phủ kín, chân đai ánh vàng.
Giáp che phủ kín ngực thân,
Dây da đinh bạc, một thanh gươm đồng.
Một chòm đuôi ngựa sau lưng,
Đong đưa màu sắc mũ lông nhuộm hồng.
Một thanh lao nhọn tay cầm,
Ngựa đi nhẹ gót, đấu trường bước đi.
Mai Ninh Lạc chẳng kém chi,
Giáp khiên, lao nhọn oai nghi tranh hùng. (2000)
Đấu trường nằm giữa hai quân,
Mắt long lanh quắc, tia nhìn hung hăng.
Hai bên khán giả lặng im,
Đợi chờ một trận gian nan tranh hùng.
Hai bên tiến đến vạch biên,
Cầm thanh lao nhọn đưa lên sẵn sàng,
Bá Lộc phóng trước lao đồng,
Mai Ninh Lộc đỡ, chiếc khiên vững vàng.
Thanh lao chẳng gãy, mũi cong,
Chặn ngang, rơi trước khiên đồng kêu vang. (2010)
Mai Ninh Lộc đưa lao lên,
Cầu xin Thần Dớt, Phụ Vương ơn lành:
Thần Vương trị kẻ tội hình,
Khởi đầu gây nỗi nhọc nhằn đau thương.
Chính tên An Lộc, đích danh.
Cầu Thần dũng cảm sức hùng đôi tay.
Trúng ngay đích kẻ thù này,
Lọc lừa phản bội, những ngày tiếp tân.
Nói rồi phóng ngọn lao nhanh,
Trúng khiên Bá Lộc, xuyên thân giáp đồng. (2020)
Rách tươm chiếc áo mặc trong,
Nhưng may Bá Lộc nghiêng thân gập mình,
Tóc tơ thoát chết mong manh,
An Trích nhảy đến, rút gươm chém đầu. (Atride Ménélas)
Chiếc gươm trúng đỉnh mũ cao,
Gãy ra bốn mãnh, chẳng sao kẻ thù.
An Trích, ngửa mặt trời cao :
Phụ Vương Dớt, chẳng Thần nào hiểm sâu,
Bằng Ngài, độc hại vì đâu,
Tôi mong kết liễu kẻ thù gian manh,
Mà gươm đã gãy tan tành,
Ngọn lao phóng chẳng đả thương kẻ thù. (2030
Nói rồi xông nắm mũ đầu,
Núm chòm lông ngựa phía sau kéo dài.
Phía An Kinh cố kéo lôi,
Bá Lộc ngã xuống, mũ quai da bò,
Dưới cổ ngạt thở phì phò,
Mai Ninh Lộc kéo, thắng to trận này.
Ngờ đâu trong một phút giây.
Vệ Nữ giải cứu, may thay kịp thời.
Thần làm đứt bựt chiếc quai,
Mai Ninh Lộc kéo, chơi vơi chao mình. (2040)
Vất cho quân sĩ An Kinh,
Chàng nhanh nắm chiếc lao đồng trong tay.
Những toan kết liễu đời ngay,
Ngờ đâu Vệ Nữ hoá mây sương mù.
Phủ vây trận địa âm u,
Đưa Bá Lộc thoát kẻ thù tấc gang.
Đưa chàng về đến khuê phòng,
Trong thành Troa ngát hương nồng đê mê.
Đích thân tìm Hạ Lan về,
Gặp nàng trên tháp cổng Khuê cao vời. * (2050)
Nữ lưu đông đủ mọi người,
Hóa thân bà lão từng nơi quê nhà,
La Thế Môn, thêu len hoa, (Lacédémone)
Khéo tay chăm chỉ thật thà nàng thương.
Đưa tay kéo váy ánh vàng.
Thầm thì nói khẽ với nàng vài câu :
Về đi Bá Lộc mong cầu,
Loan phòng lộng lẫy sắc mầu thanh xuân.
Phục trang chàng đẹp vô cùng.
Nói gì ? chàng ở chiến trường về đây ? (2060)
Không, vừa tàn một cuộc vui,
Chàng thôi khiêu vũ, nghỉ ngơi trong phòng.
Hạ Lan đang rối trong lòng,
Thoáng nhìn chiếc cổ trong ngần thần tiên,
Những lời đường mật dịu êm,
Mắt nhìn lóng lánh êm đềm đê mê.
Hạ Lan điểm mặt chẳng nề :
Quái Thần, còn muốn rủ rê lọc lừa,
Đưa ta xa nữa hay chưa?
Phố thành nào để cho vừa điêu ngoa. (2070)
Phi Chi, Mê Ny phồn hoa, (Phrygie, Méonie)
Thanh niên đàng điếm ba que ngọt lời.
Giờ đây Bá Lộc thua rồi,
Mai Ninh Lạc sẽ đưa tôi trở về.
Mụ còn mưu mẹo rủ rê,
Sao không tìm đến ngủ nghê với chàng.
Bá Lộc đẹp nhất trần gian,
Rồi từ bỏ hẵn con đường thần tiên.
Chẳng về chi nữa Thiên Sơn,
Yêu đương giữ lấy, ngày đêm nuông chiều. (2080)
Hóa thành người vợ thương yêu,
Hay là nô lệ đi theo hầu kề.
Còn tôi, tôi chẳng thèm về,
Chẳng thèm hèn hạ chát chia chiếu giường.
Dân Troa nhạo báng sau lưng,
Và tim tôi mãi vô cùng đớn đau!
Giận căm, Vệ Nữ khẽ gào:
Chớ làm ta giận, lời sao khốn cùng,
E rằng ta nổi cơn khùng,
Và ta chẳng bỏ rơi nàng mà đi. (2090)
Ta chẳng ghét nàng dị kỳ,
Ta yêu thương mới mưu này cao sâu,
Vì nàng thù hận thiên thu,
Troa Yên cùng với kẻ thù Da Niên.
Nàng còn sắc đẹp giai nhân,
Thì còn số phận đã dành đau thương.
Hạ Lan nghe nói kinh hồn,
Bước đi kéo chiếc khăn voan trắng ngà.
Lặng im cất bước đi ra,
Chẳng ai trông thấy bóng hoa ẩn hình. (2100)
Bước theo sức cuốn thần linh,
Nàng đi về chốn tư dinh cung vàng.
Thị tỳ nhanh bước hầu gần,
Đưa nàng về chốn loan phòng lầu cao.
Ngồi trên chiếc ghế nhung đào,
Nữ thần Vệ Nữ cười chào lã lơi.
Cạnh bên Bá Lộc tươi cười,
Hạ Lan ngồi xuống buông lời đắng cay :
Chàng từ cuộc chiến về đây,
Chẳng thương vong bởi một tay anh hùng. (2110)
Ấy là chồng của tiện nhân,
Hôm nao chàng mới khoe khoang sức mình,
Sẽ thắng Mai Ninh đấu trường,
Bằng đôi tay, bằng một trường thương lao dài.
Sao không thách đấu nữa thôi,
Một trận đối mặt, một nơi tranh hùng,
Nhưng nay chàng trốn hậu cung,
Tôi khuyên chàng hãy chớ đừng bước ra,
Trước Mai Ninh Lạc hẳn là,
Một người mất trí mới ra chiến trường, (2120)
Nắm phần chắc chắn bại vong,
Đường lao dũng mãnh phóng nhanh kẻ thù.
Bá Lộc cười gượng nói mau:
Nàng ơi chớ nói lời nào mỉa mai,
Trêu gan trách cứ ta hoài,
Hôm nay Mai Lạc hơn tài thắng ta,
Nhờ Quán Trí thế mới là.. (Athéné)
Ngày mai sẽ đến lượt ta anh hùng,
Có các Thần hổ trợ cùng,
Nàng ơi, hãy đến gối giường hợp hoan. (2130
Lòng ta hoan lạc cùng nàng,
Tự bao giờ đã ngập tràn sướng vui,
Từ La Môn đó xa vời, (Lacédémone)
Ta mang nàng xuống thuyền rời cố hương.
Dong buồm ra thẳng biển ngàn,
Đảo Ca Ná đó cùng nàng ái ân, (Cranae)
Yêu thương ngày tháng kề gần,
Chỉ lòng khao khát mơ màng đam mê.
Nói rồi bước tới gần kề,
Thoát y trang khẽ vỗ về mơn man. (2140)
Nàng như mê đến bên chàng,
Giường hoa trong giấc mơ màng hợp hoan.

Trong khi nơi chốn chiến trường,
An Trích tìm kiếm dọc ngang hét lời.
Như con sư tử háo mồi,
An Lộc đã trốn ở nơi chốn nào ?
Chẳng trông, chẳng thấy nơi nao,
Hai bên quân sĩ chẳng sao trả lời.
Chỉ cho chàng biết chốn nơi,
Một làn sương dịu mê người mang đi. (2150)
Chẳng ai hay biết được gì,
Mơ màng sương khói che mi mắt trần.
An Gia Vương tuyên bố sự tình:
Lắng nghe quân tướng đồng tâm thề nguyền,
Troa Yên cùng với An Kinh,
Mai Ninh Lạc thắng quang vinh trận này.
Hãy giao trả Hạ Lan ngay,
Và bao tài sản nàng ngày ra đi,
Đền bù chiến phí đã chi,
Từ nay hai nước hội kỳ kết giao. (2160)
Chỉ còn kỷ niệm bên nhau,
Bây giờ cho đến mai sau kết tình.
Nghe lời An Trích vang lừng,
Quân An Kinh đã bằng lòng reo vang. (2164

(Còn tiếp kỳ tới)
Thi Ca Khúc IV: Vi phạm thoả ước thề nguyền. Agamemmnon chuẩn bị tiến công.

CHÚ THÍCH

Pygmée: Bích Mê, theo huyền thoại người lùn Éthiopie, là nơi tận cùng phía nam Đại Dương, con sông bao quanh đất liền, hàng năm chiến đấu với con hạc và giết rất nhiều.

Nam Tố: Notos, gió Nam

An Lộc Hèn. Nguyên tác Maupâris, chữ Mau trước tên dùng tỏ vẻ khinh khi. An Lộc Alexandre tên bọn mục đồng đặt cho Pâris nghĩa là Người Bảo Vệ.

Achéens, Argiens, Daniens; Homère dùng 3 tên để chỉ người Hy Lạp

Quan tài đá: nghĩa là ném đá cho chết. Thời Homère người Hy Lạp đốt xác.

Iris (Y Bích): Nữ Thần Cầu Vòng truyền tin.

Tháp Scée trên cổng thành Scée còn gọi là cửa Dardanienne, mở ra cánh đồng Scamandre và chiến trường.

Lampos, Clytios, Hykétaon là em vua Priam.

Castor và Pollux, các em cùng mẹ Léda, nhưng tương truyền thần Zeus hóa thành con ngỗng hiện xuống giao hoan với Léda sinh ra nàng Hélène, nên nàng là con thần Zeus.

Tế Lễ: Hy Lạp thời Cổ Đại thường tế lễ bằng hai con cừu trắng và đen. Con trắng tế các thần cõi Olympe và con đen tế các thần cõi Hadès.

Hai Thần cõi âm là Hadès và vợ là Parséphone, đoạn khấn này là đoạn duy nhất Homère viết về sự trừng phạt tội lỗi sau khi chết.
 

Paris 12-8-2016.
PHẠM TRỌNG CHÁNH ( Nhất Uyên) chuyển ngữ thơ lục bát
Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris Sorbonne.
 
 [trang trước] / [còn tiếp]