Sử
thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên
trường ca bất tử của nhân loại
(bài 1)
Nhất
Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển
ngữ thơ lục bát
|
|
Thơ Thi Hào Homère
là một chuổi châu ngọc toàn hảo, không thể thay một câu,
không thể thế một chữ. Từ ba ngàn năm trước nền văn
minh Hy Lạp đã tạc tượng thần Apolon, tượng thần Vệ Nữ
toàn hảo, người xem ngày nay phải rung động trước vẽ đẹp
bằng đá trắng tuyệt mỹ pho tượng. Nhìn đôi cánh thần,
nhìn nếp tà áo quyện trên thân thể, ta thấy được gió
thoảng trên thân thể ngọc ngà thần Vệ Nữ trên đỉnh Olympe.
Cũng như thế thi ca Homère là những dòng châu ngọc. Thật
khổ sở cho người đọc, chỉ đọc được các bản dịch
bằng văn xuôi như xem một cái xác ướp không hồn đen đủi,
mất đi âm thanh, nhịp điệu, màu sắc.. không thấy được
cái cô động hình ảnh, ý tứ, bi hài, đẹp đẽ của thi
ca.
Vì mối ưu tư ấy,
tôi đã chuyển ngữ ra thơ lục bát hai sử thi Odyssée(12110
câu) và Illiade (16931 câu) trong 10 năm liên tục. Khuê Văn xuất
bản tại Paris. Tôi đã năm lần viếng thăm các nơi có di
tích trong hai sử thi: thăm đảo động đá thiên đường của
Calypso, thăm bờ biển vắng nơi Ulysse chiều chiều ra ngồi
khóc nhớ vợ con. Thăm đền địa ngục ca thần Hadès, nơi
Ulysse cầu tiên tri được gặp mẹ, thăm thành trì cung đình
vua Agamennon, vua Nector, thăm những nơi có chiến trận, những
nơi các nhân vật Homère đã đi qua, vào viện bảo tàng Hy
Lạp và các nước Âu Châu xem các vật dụng, vàng, bạc đồng
Homère đã mô tả, tôi đã từng cắm trại, ngủ lại đêm
trên bờ biển vắng, đi tàu trong đêm, rùng minh trong giông
bão, nghe tiếng cá heo như tiếng các nàng nhân ngư, đi qua
các đảo núi lửa, Homère đã nhân cách hóa thành những ông
khổng lồ ném đá.. Tôi đã tham khảo hàng trăm quyển sách,
xem nhiều bộ phim về đề tài Odyssée và Iliade. Tôi có ý
dịch thơ Homère từ năm 1976, khi nhận được hai sử thi là
quà tặng Duy Nga, người bạn đời của tôi, nhưng mãi năm
2001 khi đi Malte và đi Hy Lạp thăm viếng các di tích, tôi đã
khởi hứng. Tôi đã công phu dịch thuật, diễn ca, chú thích,
tái sáng tạo bằng thơ lục bát mà chúng ta gọi là ngôn ngữ
Truyện Kiều để người Việt Nam ai đọc cũng hiểu và thưởng
thức được kiệt tác văn chương vĩ đại của nhân loại.
Hai tác phẩm đã được in ra, và phổ biến được 500 bản
với các tranh bìa của J.D. Ingres, trong viện Bảo Tàng Louvre,
Lyon.. một họa sĩ hàng đầu nước Pháp. Nhiều bạn đọc
lấy làm buồn không mua được tác phẩm, và dịch giả cũng
không đủ khả năng để tặng toàn bộ tác phẩm cho các bạn
yêu văn chương.. Để bạn đọc xa gần có dịp tiếp xúc
với thi ca Homère, tôi sẽ đăng tải trên các sitre internet
quen biết, tôi sẽ lần lượt đăng từng chương vài trăm
câu, kèm theo chú thích, bình luận.. Mỗi sử thi gồm 24 chương
sẽ đăng làm 48 lần cho gần 30000 câu thơ. Ước mong các bạn
đọc muốn tìm đọc Homère sẽ có cơ hội tiếp xúc được
kiệt tác văn chương của nhân loại.
Illiade và Odyssée
là hai thiên trường ca bất tử của nhân loại, tác phẩm
văn học vĩ đại do Thi hào Homère, Hy Lạp sáng tác cách chúng
ta 2900 năm và vẫn làm say mê nhân loại trong suốt 29 thế
kỷ.Iliade kể chuyện về cuộc chiến thành Troie, Odyssée kể
chuyện Ulysse sau cuộc chiến trở về quê hương phải vượt
qua bao gian nan. Illiade chỉ kể lại một giai đoạn hơn bốn
mươi ngày, nhưng qua đó cuộc chiến mười năm 1193 – 1183
trước Tây Lịch. Một truyện thơ hàng trăm nhân vật qua đó
nổi bật hai anh hùng trong sáng như thần: Achille và Hector đối
mặt nhau từ sống đến chết. Một kiệt tác văn chương viết
về chiến tranh, anh hùng ca lẫn thần thoại. Cõi thần can
dự trực tiếp vào cõi người, những vần thơ tuyệt tác
tả cảnh chiến tranh, hùng tráng sắt thép rợn người, những
tâm lý trái ngang cõi người. Mối bất hòa giữa dũng tuớng
Achille và Vua Agamemnon vì mất đi một giai nhân, mối tình chia
ly trong chiến tranh giữa Hector và Andromaque, tình bạn nhận
ra giữa chiến trường thù nghịch giữa Diomède và Glaucos,
tâm sự Hélène giữa người yêu quyến rủ Pâris và người
chồng chung thủy Ménélas. Thế giới Thần lại mang đầy cái
xấu con người , Thần Vương Zeus mê gái nhưng sợ vợ, Thần
đầy dục vọng, Zeus bị bùa mê Héra, giăng mây vàng làm tình
giữa núi Ida. Các Thần đố kỵ nhau, chia phe can thiệp vào
cõi người, mượn tay người để đánh nhau, chẳng khác chi
các Cường quốc mượn tay các nước nhược tiểu để đánh
nhau trong Chiến Tranh Lạnh. Sử thi Iliade rất xưa và cũng rất
hiện đại trong thế giới ngày nay.
Homère được xưng
tụng là con Thần Nữ Thi Ca, là Thủy Tổ Văn Học Tây Phương,
là Vua các nhà thơ, và là nhà thơ các vua, các bậc Văn hào
qua bao thế kỷ đều kính phục học tập. Sinh sau cuộc chiến
thành Troie 300 năm, ông tái tạo lại những đoạn thơ truyền
khẩu do các du tử sáng tác trước ông thành hai kiệt tác
văn chương. Ba nghìn năm qua các thần thánh, vua chúa, anh hùng,
giai nhân, thành quách, lâu đài đều tan biến, và chỉ còn
thơ Homère như viên ngọc quý giá bất tử với thời gian.
Iliade có nghĩa là
chuyện thành Ilion, một tên gọi khác của thành Troie, một
xứ nằm giữa Hellespont, Phrygie và đảo Lesbos, kinh đô nằm
phía tả ngạn sông Mendérès-Scamandre, chu vi khoảng 12 km, có
thành Bunar-Baschi vòng thành 2km dựng trên mõm đá cao 154m. Nhưng
theo Schleman, người Đức năm 1871-1890 khai quật di tích, lại
cho rằng thành Troie nằm trong khu vực Hissarlik tiếng địa
phương gọi là Cổ thành. Vùng này xưa kia thuộc Hy Lạp, nay
thuộc Thổ Nhỉ Kỳ.
Ngày xưa hai truyện
thơ Odyssée và Iliade, được các du tử chuyên nghiệp đi khắp
vùng Địa Trung Hải, ngâm thơ kể chuyện, đệm đàn lia (Lyre),
Mỗi lần kể một chương vài trăm câu. Mỗi năm mùa biển
động, dân chúng ngồi say mê, vừa bắt chí cho nhau, vừa nghe
thơ. Iliade nếu được kể liên tục bốn ngày bốn đêm và
Odyssée nếu được kể liên tục trong ba ngày ba đêm. Họ
nghe đi nghe lại say mê đến thuộc lòng, nhiều người thuộc
cả hai truyện thơ như người Việt Nam ngày xưa thuộc Truyện
Kiều. Truyện thơ Hy Lạp bắt nguồn từ truyền thống tang
lễ, khi có một nhân vật quyền quý chết, gia đình thường
mời một du tử đến kể lại chuyện đời. Du tử có tài
ứng khẩu biến lời kể thành vần điệu và ngâm nga trước
tang lễ cho mọi người nghe suốt ba ngày ba đêm. Thơ Homère
thịnh hành thời Cổ Đại, trong hơn 1600 bộ sách viết trên
giấy da tìm thấy ở Ai Cập bằng tiếng Hy Lạp cổ điển,
phân nửa là thơ Homère. Thơ có thể khởi đầu bất cứ đoạn
nào, đời sau chia mỗi sử thi thành 24 chương.
Từ thế kỷ thứ
năm trước Tây Lịch trẻ em Hy Lạp thường học với ba vị
thầy : Một người dạy văn phạm, dạy thơ Homère, một
người dạy thể dục, và một người dạy đàn lia. Thời
Trung Cổ từ năm 393 bắt đầu với sự hưng thịnh Thiên Chúa
Giáo, quyển Thánh Kinh trở thành quyển sách duy nhất. Các
sách vở Hy Lạp bị cất dấu, trường Lycée, Accadémie bị
đóng cửa, thì tại các nước Á Rập, văn minh Hy Lạp vẫn
được tiếp tục dạy dỗ, nối tiếp, các nước Á Rập trở
nên hùng mạnh, chiếm cứ cả Tây Ban Nha, phân nửa nước
Pháp, Hy Lạp bị chiếm, các nước cận đông, thánh địa
Thiên Chúa Giáo đều rơi vào vòng ảnh hưởng Á Rập Hồi
Giáo.. Ý thức sự yếu kém trước nền văn minh Á Rập, Tây
Phương đã tìm lại nền văn minh Hy Lạp, họ dịch thuật,
tái sáng tạo từ những tác phẩm Hy Lạp, tại Pháp Molière(1622-1673),
Jean de la Fontaine(1621-1695) tái sáng tạo những đề tài từ
kịch nghệ, thơ ngụ ngôn Hy Lạp. Tây Phương đã tạo nên
thời đại Phục Hưng. Phục Hưng là khôi phục lại lại nền
văn minh huy hoàng thời Cổ Đại Hy Lạp, bị chôn vùi bởi
thời Trung Cổ. Nền phục hưng chiếm lĩnh lãnh vực Văn học,
Nghệ Thuật đến Giáo dục, biến các Trường Đại Học được
lập ra ban đầu để dạy Thần Học thành những cơ sở giảng
dạy đa dạng với đủ các ngành Khoa Học, Triết Học, Y Học..
Giáo Dục từng bước tách rời khỏi Giáo Hội Thiên Chúa
Giáo trở thành một động lực phát triển khoa học kỹ thuật,
tạo nên một cách mạng kỹ nghệ với vô vàn những phát
minh tiến bộ, từ đó Thời đại Ánh Sáng và đem văn minh
truyền bá và chinh phục cả thế giới. Các nền văn minh Trung
Quốc, Ấn Độ dậm chân một chỗ, bị các cường quốc Tây
Phương xâu xé, chiếm cứ; trừ Nhật Bản đã nhanh chóng mở
cửa và cải cách giáo dục đã nhanh chóng tiến kịp cùng
với Tây Phương. Thái Lan nhanh chóng tiếp xúc gửi những sứ
đoàn sang các nước Tây Phương giữ độc lập bằng ưu thế
ngoại giao. Tây Phương gọi Thời Trung Cổ là Thời nằm giữa
Thời Hoàng Kim Cổ Đại Văn minh Hy Lạp thời Phục Hưng. Nước
ta không có thời Cổ đại và không có thời Phục Hưng thì
thời Trung Đại nước ta nằm ở chổ nào ?
Thế kỷ 20, 21 hàng
năm vẫn có hàng trăm tác phẩm luận án Tiến sĩ nghiên cứu
về thi ca Homère, vẫn tiếp tục khai thác các đề tài qua
hàng chục bộ phim, nhạc kịch, hội họa, điêu khắc. Trong
ngôn ngữ hằng ngày có những thành ngữ: trái táo bất hòa,
cuộc Odyssée, gót chân Achille, tấm khăn Pénélope, lời tiên
tri Cassandre... Đi đường ta gặp những bảng hiệu: Hermès,
Pénéloppe, Ulysse, Calypso, Ino, Poséidon, Ajax, Hector.. Biết truyện
thơ Homère là một chìa khóa để mở cách cửa vào nền văn
minh Tây Phương, thưởng thức được những cái hay cái đẹp
trong Hội Họa, Điêu Khắc, Âm Nhạc, Kiến Trúc, Văn học
Tây Phương.
Nền văn minh Hy
Lạp cách đây 2500 năm, nơi đây hình thành nền móng cho mọi
ngành từ triết học, thiên văn học, y khoa, toán học, thể
thao, thi ca, kịch nghệ, sử học.. Nơi đây đã hình thành
những giá trị nhân bản của nhân loại : cộng hòa, tự do,
dân chủ, hạnh phúc, dân quyền, phân quyền.. Những cơ sở :
Trường học lycée, Hàn lâm viện, Nghị Viện, vận động
trường Olympic, sân khấu, thư viện.. Để lại hàng trăm tên
tuổi bất tử với sách vở: Socrate, Platon, Aristote, Thalès,
Archimède, Pythagore, Hyppocrate, Homère, Aristophane, Diogène, Epicure,
Eschyle, Ésope, Euclide, Euripide, Hérodote, Pausanias, Pindare, Sappho,
Sophocle, Périclès.., Alexandre le Grand.. Ngôn ngữ Hy Lạp từng
là ngôn ngữ chính thức của Âu Châu, trong nhiều thập kỷ,
nền văn minh La tTnh tiếp nối lại truyền bá những thành
tựu của văn minh Hy Lạp. Hầu hết các ngành khoa học ngày
nay đều bắt đầu từ một ông tổ Hy Lạp thời Cổ Đại.
Hiểu biết nền văn minh Hy Lạp ta không chỉ viết ta từ đâu
đến và tương lai đi về đâu?
Homère gọi người
Hy Lạp bằng các tên : Achéens, Argiens, hay Danaens. Đàn ông
thường mô tả : tóc nâu để dài, coí râu quai hàm hay râu
mép. Người Hy Lạp có một nền văn minh khá cao so với các
dân tộc đương thời. Biết nuôi lợn, nuôi bò, nuôi cừu
với quy mô đông đúc hàng trăm con. Đặt biệt là biết nuôi
ngựa và xử dụng ngựa trong chiến trận sớm hơn các dân
tộc khác. Vai trò con ngựa rất quan trọng trong việc chuyên
chỡ vũ khí, lương thực, đi xa, nhanh chóng và chiếm được
ưu thế bất ngờ trên chiến trường. Ngoài ra họ là những
thủy thủ giàu kinh nghiệm trên biển, biết đóng thuyền bọc
đồng, chỡ vũ khí, áo giáp, dụng cụ bằng đồng.. Họ tổ
chức gia đình theo phụ hệ hay bộ tộc. Mỗi vùng có một
vị vua cai trị và thần phục một vị vua mạnh nhất. Khi
có chiến tranh các vua liên minh với nhau, với sự chỉ huy
của vua các vị vua. Trong thơ Homère, Agamemnon là vua các vị
vua. Họ có một tôn giáo, đấng tối cao là Thần Zeus : Zeus,
Dies là gốc tích chữ Dieu của Tây phương. Zeus thường được
xem là cha các vị vua. Hy Lạp có một hệ thống thần thoại
phong phú. Đỉnh cao của phổ hệ thần thoại là Chaos, Thần
Hổn Mang khởi đầu vũ trụ. Sinh ra Ouranos (Uranus) là Ông Trời
và Gaîa (Terra Mater) là Mẹ Đất. Sinh ra 12 Titans ở dưới
lòng đất, các anh em Géants, Hécatonchires các quái vật năm
mươi đầu, trăm tay và trên mặt đất là Thần Chronos ( còn
viết là Cronos, Saturnes) là Thần Thời Gian và Bốn Mùa. Chronos
hay ganh ghét chiếm quyền cha Ouranos, nuốt các con trai, và phá
hũy các công trình mình làm ra. Chronos lấy Thần Rhéa (Cybèle)
tượng trưng cho sự thụ thai, sinh ra ba con là Zeus, Poséidon
và Hadès. Thần Rhéa dùng mưu kế, cho chồng nuốt cục đá
và cứu ba con trai thoát chết. Zeus trưởng thành nổi loạn
cướp ngôi cha. Chronos gọi các Titans giúp sức. Nhưng Zeus và
hai em chiến thắng, đầy lùi các Titans về Tartare một vùng
sâu thẳm dưới cả dưới Địa Ngục. Zeus trở nên toàn quyền
cai trị thế giới, đóng đô trên núi Olympe. Zeus (Jupiter) chia
cho hai em Poséidon (Neptune) cai trị Biển Cả ở cung điện dưới
Thủy Cung và Hadès (Pluton) cai trị cõi Âm Phủ.
Zeus giết cha lấy
người chị cả Héra làm vợ. Héra (Junon, Hạ Cơ) là Thần
nữ Hôn nhân, sinh ra Thần Arès(Thần Chiến Tranh) và Héphaîstos
(Thần Hoả Thái). Zeus còn có nhiều vợ và sinh nhiều Thần
khác.
Athéné (Minerve,
Pallas, Quán Trí Tuệ, Quán Trí)), Zeus tự bổ trán sinh ra. Thần
nữ Thông minh và khôn ngoan, có đôi mắt sáng cú mèo. Thần
nữ bào hộ nghệ thuật, nghệ thuật và các việc khéo tay.
Athéné còn là nữ thần chiến thắng mang chiếc khiên, gươm,
giáo và cũng là nữ thần hòa bình mang nhành ô liu.
Apollon(Phoebé, Phoebus,
An Long, An Đông): Thần Mỹ Thuật và Nghệ Thuật, con Zeus và
Léto, song sinh với Artémis. Thần ngự trên núi Parnasse, thường
cầm cây cung bạc và đàn lyre, thần của thi sĩ, nhạc sĩ
và mục đồng. Thần gieo nạn dịch bằng cây cung bạc để
trừng trị.
Artémis (Diane, Đạt
Thế Mỹ) Thần nữ mặt trăng, thiên nhiên và săn bắn, thường
hiện ra với trăng lưỡi liềm,, con nai và mang cung, nữ thần
xinh đẹp và có lời nguyền là trinh nữ mãi mãi.
Hermes (Mercure, Hạc
Mai, Mai Hạc) Con Zeus và Maia, tiên nữ làm mưa. Thần của Thương
mại, của người trộm cắp và người giang hồ, là sứ thần
truyền tin của Thiên Đình, và dẫn các linh hồn xuống địa
ngục.
Héphaïstos (Vulcan,
Hỏa Thái) Con Zeus và Héra. Thần Lửa và Kim loại. Bênh mẹ
bị Zeus ném xuống trần nên bị thọt chân, lập lò rèn trong
núi lửa Etna (Ý), chồng của Aphrodite (Vệ Nữ) nhưng vợ ngoại
tình với thần Arès. Héphaïstos làm bẩy sắt bắt được
hai thần đang làm tình bất động trên giường và gọi các
thần khác đến phán xét.
Arès (Mars, Chiến
Thần) Thần chiếm tranh, thường đi với hai người hầu là
Terreur và Effroi, mang mũ đồng và vũ khí, bản tính hung bạo
và can đảm.
Aphrodite (Vénus Vệ
Nữ), Nữ thần sắc đẹp và tình yêu, mẹ của cây cỏ và
làm đẹp sự sống.
Dionysos (Bacchus)
Thần Nho và Rượu vang. Con Zeus và Sémélé. Bị Héra ghen nên
sảy thai, Zeus đón bào thai nuôi trong đùi cho đến ngày sinh.
Theo truyền thuyết,
nguyên nhân cuộc chiến thành Troie, là do quả táo bất hòa.
Truyện kể rằng trong đám cưới của vua Pélée và Nữ thần
biển Thétis. Họ đã quên mời Eris Nữ Thần Bất Hòa đến
dự. Để phá vỡ cuộc vui và gây nên bất hòa những người
đến dự. Eris lăn quả táo vàng vào giữa bàn tiệc, quả
táo có đề chữ Tặng người đẹp nhất rồi vội vả
về ngay. Thế là cả bàn tiệc sôi động hẵn lên. Ai cũng
muốn dành quả táo ấy, họ tranh cải cuối cùng bỏ cuộc
chỉ còn ba thần : Héra, Athéné và Aphrodite.. Họ bảo nhau
đến Zeus phân xử, nhưng Zeus lắc đầu sợ vợ bảo răng
thiên vị, Zeus bèn sai Hermès dẫn ba thần sang phương Đông,
nhờ một người trần đẹp nhất là Pâris phân xử.
Pâris vốn là con
vua Priam, lúc sinh ra Hoàng Hậu Hécube) nằm mơ thấy mình sinh
ra ngọn đuốc tiêu hủy thành Troie. Tiên tri đoán mộng đứa
bé này sẽ mang tai hoạ ghê gớm cho thành Troie. Vua bèn cho
đem Pâris bỏ vào rừng. Pâris được một con gấu cái đến
ấp ủ, và được một người chăn chiên Arélaos đem về nuôi.
Lớn lên Pâris khôi ngô tuấn tú, được bạn bè chăn cừu
đặt cho tên Alexandre là người xuất chúng, người bảo vệ
bởi vì chàng có sức khỏe hơn người, đánh bại thú dữ
và kẻ cướp. Một hôm có đoàn lính nhà vua Priam đến mua
cướp 50 con bò đẹp nhất của Pâris để làm lễ hiến tế
và trao phần thưởng cho cuộc thi thể thao. Pâris không thể
cưỡng lệnh nhà vua, nhưng đi theo nhất quyết dành phần thắng
trong các cuộc thi để mang bò về. Quả nhiên Pâris dành hết
các giải và đánh bại hết các địch thủ anh em ruột mình,
kể cả anh cả Hector. Một người con trai vua Priam là Déiphobe
toan rút gươm giết Pâris. Pâris chạy đến tượng Thần Vương
cầu xin che chỡ. Déipobe phải bỏ ý đồ hung bạo. Cô em gái
Cassandre có tài tiên tri nhận ra chàng trai chăn bò đó là Pâris.
Vua Priam và Hoàng Hậu cảm động nhận ra con và đón vào cung.
Cassandre còn tiên tri Pâris dẽ gây nên sự diệt vong thành
Troie, nhưng lời nói nàng chẳng ai nghe. Ngày nay điển tích
lời tiên tri Cassandre, chỉ những sự sáng suốt tiên liệu
thông minh, nhưng chẳng ai nghe và không được áp dụng, để
tránh tai họa. Pâris sống trong cung điện nhưng thường về
núi Ida thăm chốn xưa. Một hôm đang chơi đồng nội thì thần
Hermès hiện xuống bắt phải phân xử tranh chấp quả táo
bất hòa. Thật là khó phân xử vì cả ba vị nữ thần đều
đẹp. Héra hứa cho chàng làm vua toàn cõi châu Á, Athéné hứa
cho chàng thông minh, trí tuệ trở nên một dũng tướng bách
chiến bách thắng. Aphrodite hứa cho chàng lấy được Hélène,
người xinh đẹp nhất Châu Âu.
Pâris đã kính cẩn
trao quả táo vàng cho Nữ Thần Sắc đẹp và Tình Yêu vì lý
do đơn giản Vệ Nữ là Thần đẹp nhất. Do không được
quả táo vàng Héra và Athéné đem lòng thù ghét Pâris va cả
dòng giống dân Troie. Ngày nay thành ngữ Quả táo bất hòa
chỉ nguyên nhân một sự bất đồng ý kiến, tranh cải, xung
đột, mâu thuẫn.
Nhưng Hélène là
một cô gái có chồng, có con gái. Chồng nàng là Ménélas,
vua thành Sparte. Em vua Agamemnon, vua các vị vua.
Thần Vệ Nữ sau
khi nhận được quả táo vàng bảo, Pâris đóng con thuyền
vượt bể sang đô thành Sparte. Cùng đi còn có người em họ
Enée. Vua Ménélas tiếp đãi nồng hậu, được vài hôm Ménélas
nhận được tin phải đi Crète dự lễ Hiến tế quan trọng.
Nhà vua cáo biệt khách và dặn Hoàng hậu Hélène tiếp đãi
chu đáo. Vệ Nữ đã cho Pâris mượn chiếc thắt lưng quyến
rũ kỳ diệu, hễ ai mang nó sẽ chinh phục được trái tim
người mình yêu. Hélène bị bùa mê đã xuống thuyền theo
Pâris, mang theo tất cả tư trang và bỏ đứa con gái lạI.
Hành động xấu
xa của Pâris khiến các thần Olympe nổi giận. Ménélas trở
về mất vợ, gặp anh Agamemnon, họ tập họp đại binh đánh
thành Troie.. Quân Hy Lạp gồm 1186 chiến thuyền và hơn 100 000
quân.. Ban đầu họ thương thuyết để đòi lại Hélène nhưng
bất thành. Họ chiến đấu trong 9 năm bất phân thắng bại.
Quân Hy Lạp phải đi đánh các vùng lân cận để tiếp tế
lương thực và bắt nhiều chiến lợi phẩm, trong đó có nhiều
phụ nữ xinh đẹp. Sử thi Iliade chỉ kể lại giai đoạn cuối
cùng trong 42 ngày và bắt đầu bằng chuyện nàng Chrysèis một
giai nhân phần thưởng chiến công dành cho vua Agamemnon, nhưng
cha nàng là Tế tự thần Apollon, đem nhiều của cải đến
xin chuộc lại con gái. Hội Đồng Tướng lĩnh đều chịu,
nhưng vua Agamemnon, vì thương cô gái không chịu, đuổi cha
nàng. Chrysès viên tế tự cầu xin thần Apollon trừng trị.
Apollon nổi giận đem cung tên đến gieo bệnh dịch, quân Hy
Lạp chết nhiều. Hội Đồng tướng lãnh họp Hội Đồng,
Achille cầu tiên tri cho biết nguyên nhân.. Vua Agamemnon đồng
ý trả nhưng bắt giai nhân của Achille để đền bù. Thế
là nổi trận bất hòa Achille đóng quân bất động không thèm
tham gia trận chiến và cầu mẹ là nữ thần Thétis lên xin
Thần Vương Zeus làm cho quân Hy Lạp bại trận. Zeus có tình
ý với người yêu xưa nên nghe lời. Héra vợ Zeus lại bênh
vực quân Hy Lạp. Thế là thêm những bất hòa vợ chồng Thần
Vương Zeus, Héra nơi thiên đình. |
THI
CA KHÚC I
TRẬN
DỊCH - CƠN GIẬN DŨNG TƯỚNG AN SINH (ACHILLE)
Sang năm thứ 10,
cuộc vây thành Troie của dân Hy Lạp, bỗng xuất hiện một
trận dịch, người và thú chết la liệt, các giàn cũi đốt
xác ngày đêm. Trước tình thế nguy cấp An Sinh mời họp Hội
Đồng Tướng Lãnh Hy Lạp, mời tiên tri Cát Sĩ (Calchas) đến
tiên đoán sự việc. Cát Sĩ xin An Sinh bảo vệ tính mạng
mới dám nói ra.
Nguyên nhân trận
dịch là do Thần An Long (Apollon) nổi giận vì An Gia Đại Vương
(Agamemnon) vua các vị vua đối xử tàn tệ với Sĩ Tiết (Chrysès),
người tế tự thần An Long đã mang trượng vàng, khăn trắng
và phẩm vật hậu hỉ đến xin chuộc con gái bị bắt trong
trận chiến và được tiến cung cho An Gia Đại Vương. Sĩ
Tiết bị vua đuổi đi. An Gia Đại Vương không tin lời tiên
tri và nổi giận vì cho rằng An Sinh bày mưu để tước đoạt
người thiếp yêu quý của mình. Nhưng trước tình thế nguy
cấp An Gia Đại Vương chiều ý mọi người, trả lại con
gái cho Sĩ Tiết. Nhưng lại bắt lại nàng Băng Tuyết ( Briséis)
của An Sinh để bù phần thiệt. An Sinh nổi giận mắng An
Gia Đại Vương. Nhà vua cho rằng kẻ dưới phải phục tùng
cấp trên. Mặc cho Thần Nữ Quán Trí Tuệ (Athéné) và vua
Ninh Tô (Nector) khuyên giải. An Sinh tuyên bố rời Hội Đồng
Liên Quân và không đánh trận cho An Gia Đại Vương nữa. An
Sinh ra bờ biển buồn than. Mẹ la Thần nữ ThêTúc (Thétis)
hiện đến. An Sinh bảo mẹ xin Thần Vương Dớt (Zeus) làm
cho An Gia Đại Vương thua trận. Thần Vương chìu lòng, nhưng
vợ là Hạ Cơ (Héra) lại muốn quân Hy Lạp thắng quân Troa
(Troie).
Hát lên, Thần nữ
Thi Ca,(Muse) 1
An Sinh dũng tướng
bất hòa gát gươm.(Achille)
Mặc bao thảm hại
vô cùng,
Xuống hàng quân
tướng vây thành An Kinh (Achéens),
Hồn tử sĩ về
cõi âm,
Xác thân sói xé,
diều ăn chiến trường.
Ý Thần Vương
Dớt định phần,
Gây nên chia rẽ,
tương tàn vua, tôi.
An Trích , vua cõi
người (Atride)
Gây hờn dũng tướng
Thần trời An Sinh. (10)
Thần nào gieo nỗi
bất bình,
An Long, con Dớt
và nàng Lã Tiên (Latone)
Cung vàng tên rải
trận tiền,
Dịch thần gieo
bóng thê lương tội tình.
Vì vua An Trích
lỗi lầm,
Mắng Sĩ Tiết
(Chrysès), tế tự thần An Long.
Sĩ Tiết đã đến
van xin,
Anh em An Trích,
quần thần An Kinh:
"Tôi người
tế tự An Long,
Trượng vàng
khăn trắng, xin dâng vật quà. (20)
Thiên đình chứng
giám lòng ta,
Giúp Ngài phá
được thành vua Bam (Priam) này;
Chiến công phúc
lộc cao dày,
Tạ Ngài, nhận
lễ tỏ bày cầu xin.
Tha con tôi chẳng
tội tình,
Chiến tranh loạn
lạc, lỡ lầm sắc hương.
Bị người bắt
giải tiến cung,
Xin Ngài kính
Dớt, An Long tha giùm."
Quần hùng dưới
trướng sẵn sàng,
Nhận qua hậu hĩ,
thả nàng cho cha. (30)
An Gia Vương mặt
tối sa,
Mất nàng Sĩ Tuyết
(Chryséis), phần quà chiến công.
Chẳng vui đuổi
kẻ tế thần :
"Lão già, chớ
dọa trượng vàng tối cao.
Lễ người ta
chẳng nhận đâu,
Con người ta
chẳng khi nào thả ra,
Nàng hầu ta
mãi đến già,
Về Đạt Gô
Lịch (Argolide) xa nhà quê hương.
Bên ta cung phụng
chiếu giường,
Bên ta khung cửi
sớm hôm cung đình, (40)
Về đi nếu
muốn yên thân,
Từ đây chớ
đến lăng nhăng quấy rầy."
Cụ già sợ hãi
ra đi,
Bên bờ biển vắng,
sầu bi ngàn trùng.
Khẩn cầu Thần
linh An Long :
"Xót thương
cho kẻ ngày đêm phụng thờ,
Giữ đền tế
tự chăm lo,
Tế bao đùi
béo dê bò lễ nghi.
Hãy ban ơn hiển
linh vì,
Oán thù giọt
nước mắt đầy đớn đau. (50)
Tên vàng trừng
trị tiêu hao,
Người An Kinh
trả nhục nào hôm nay."
Thần An Long lắng
nghe lời,
Thiên đình vì
tiếng bề tôi, đùng đùng,
Vác cung vàng đội
mũ đồng,
Nửa đêm đến
giữa binh thuyền An Kinh.
Nhắm đoàn binh
bắn vãi tên,
Chó, lừa gục
ngã chẳng màng vì đâu.
Đến người dịch
rụng rơi mau,
Lửa giàn thiêu
xác ngút cao khói mù; (60)
Chín ngày trận
dịch thương đau,
An Sinh mời tướng
quan mau họp bàn.
Hạ Cơ(Héra) Bạch
Thủ Nữ Thần,
Lo âu mặc khải
Hội Đồng Quân Trung.
An Sinh đứng dậy,
lời rằng:
"Tình hình nguy
cấp nếu không giải tìm,
Một bên chiến
trận triền miên,
Một bên nạn
dịch đảo điên hoành hành.
Chỉ còn bỏ
trận vây thành,
Rút quân lìa
bến tay không trở về. (70)
Mời tiên tri
đến lắng nghe:
Bói cho điềm
mộng, giải bề thần trao.
An Long gieo dịch
vì sao ?
Lễ nghi, tế
tự, thế nào hỏi tra.
Ý thần từ
đó tìm ra,
Lễ thần cúng
tế cho qua nạn này."
Cát Sĩ Thế Tô
tiên tri. (Calchas Thestor)
Hiện tại, quá
khứ, vị lai tinh tường.
Thần An Long dạy
bói điềm,
Đứng lên ngỏ
với quần hùng thiết tha. (80)
"An Sinh có ý
mời ta :
Giải điềm
Thần Dớt, dịch là vì đâu ?
An Long gieo rắc
thương đau,
Nhưng điều
tôi nói, trước sau mất lòng.
Tướng Quân
suy nghĩ cho cùng :
Mệnh tôi bảo
đảm mới hòng nói ra.
Tướng Quân
thề với Dớt là :
Sẵn sàng cứu
mệnh can qua vì lời.
Một lời đụng
chạm đến người,
Quyền hành thù
ghét ắt thời họa mang. (90)
Căm thù để
giữa tim gan,
Có ngày rồi
sẽ quay sang giết người."
An Sinh trước Dớt
thề bồi:
"Yên tâm Cát
Sĩ bói lời tiên tri.
Nói ra sự thật
dẫu vì,
Dù lời đụng
chạm bất kỳ đến ai.
Ngày ta còn sống
trên đời,
Quyết tâm ta
bảo vệ người chẳng nan.
Dầu đụng An
Gia Đại Vương,
Dầu chạm bất
cứ cấp trên quyền hành. " (100)
Tiên tri Cát Sĩ
yên tâm,
Ngỏ lời nói với
Hội đồng Quân nghi:
"Các thần chẳng
giận ta vì,
Lễ Thần cúng
tế hội kỳ hàng năm?
Hay điều cấm
kị thiêng liêng,
Chúng ta chẳng
phạm những điềm thần răn,
Họa tai là bởi
vị thần,
Có cây cung bạc
An Long giận vì.
An Gia nhục mạ
khinh khi.
Môn đồ Sĩ
Tiết nơi này cầu xin. (110)
Cụ dâng phẩm
vật chuộc con.
Nhà vua lăng
nhục, lại còn đuổi đi.
Cho nên thần
đã ra tay.
Chỉ còn một
cách: thả ngay, tha nàng.
Dâng cụ lễ
vật tế thần,
Cầu xin tạ
tội mới hòng thoát nguy.
An Gia sa mặt tức
thì,
Quắc nhìn sang
vị tiên tri dằn lời:
" Người tiên
tri thiệt ta thôi,
Chẳng bao giờ
nói được lời dễ thương. (120)
Âm mưu hắc
ám trong lòng,
Bói điều thiệt
hại rõ ràng cho ta.
Nàng Sĩ Tuyết
phần đã chia,
Ta đà từ chối
nhận quà đổi trao,
Vì ta quyến
luyến biết bao,
Yêu nàng lòng
chẳng muốn sao xa lìa.
Xa Ly Tâm Khánh
vợ nhà (Clytemmestre),
Thì nàng chẳng
kém mặn mà sắc hương.
Bây giờ trả
phải bồi thường,
Lẽ nào chịu
thiệt đêm không lạnh lùng. (130)
Bồi thường tương
xứng giai nhân,
Mình ta chịu thiệt,
ta không thể nào !
An Sinh khuyên nhủ
trước sau:
Đại Vương
An Trích chớ nào xót xa !
Kho tàng mỹ
nữ đã chia,
Chẳng còn chi
nữa để mà thay chân,
Hứa rằng mai
mốt chiến công,
Đền bù xứng
đáng được phần nhiều hơn.
An Gia Vương đáp
giận hờn:
An Sinh bày kế
mưu toan dối lừa. (140)
Trả nàng Sĩ
Tuyết về nhà,
Cùng đàn súc
vật cho cha tế thần.
Song ta, chịu
thiệt rằng không !
Thì ta sẽ đoạt
lấy phần của ngươi,
Phần nàng mỹ
nữ đẹp tươi.
Hay của Uy Lĩnh
(Ulysse), An Bắc (Ajax) mới thời chẳng thua !
Thế là nỗi trận
bất hòa,
An Sinh tức giận,
lời ra bừng bừng:
Hỡi người
trân tráo tham lam,
Tướng, quân
còn có nhất tâm phục tòng. (150)
Bao nhiêu vương,
tướng tùy tùng,
Làm sao kính
phục đem lòng thương yêu.
Quên mình giao
chiến quân thù,
Đạn tên, cái
chết thiên thu sẵn sàng.
Như ta tham chiến
chẳng màng
Người Troa (Troie)
chẳng ghét, chẳng mang hận gì.
Bò ngựa chẳng
cướp mang đi,
Mùa màng chẳng
phá, chẳng chi phiền lòng.
Hai bên cách
núi ngàn trùng,
Cách bờ sóng
vỗ mênh mông chân trời. (160)
Chỉ vì ta kính
nể người,
Xót Mai Ninh Lạc
(Ménélas), đến nơi báo thù.
Đầu rơi máu
chảy mặc dù,
Thế người
chẳng lấy làm điều nghĩ suy.
Toan dùng quyền
lực tước đi,
Đoạt phần
kẻ dưới, còn gì sĩ liêm.
Hỡi người
mặt chó vô lương,
Hỏi rằng chiến
phẩm ai hơn bằng người ?
Người ngồi
hậu cứ xa vời,
Còn ta sinh tử
kề vai nhọc nhằn. (170)
Xông pha mũi
giáo đường tên,
Từ nay ta sẽ
chẳng nên vì người !
Về Phi Thy (Phthie)
quê ta thôi,
Thuyền ta ngang
dọc đất trời quê hương.
Chẳng thèm chiến
đấu gian nan,
Chỉ vì mục
đích giàu sang cho người.
An Gia Vương gay
gắt lời:
Đi đi, ta chẳng
cần người kiêu căng !
Vạn người
dưới trướng phục tòng,
Ý Thần Vương
Dớt hộ ban đủ rồi. (180)
Người là vua
đáng khinh thôi,
Chiến trường
nào chỉ mình người đấu tranh.
Nếu người
hùng mạnh, anh hùng,
Có thần phù
hộ vẫy vùng bao la,
Về quê đi với
mẹ cha,
Dù người giận
chẳng làm ta sờn lòng !
Nếu vì kính
Thần An Long,
Trả nàng Sĩ
Tuyết là phần của ta,
Thì ta sẽ khiến
người qua,
Bắt nàng Băng
Tuyết (Breisès) thay ra, của người. (190)
Phận thần dưới
trướng : vua tôi,
Phục tùng là
phận của người trung quân.
Mọi người
lấy đó làm gương,
Tướng quân
vâng lệnh chớ nên xem thường.
Xem vua vai vế
ngang hàng,
Uy quyền, sức
mạnh vua không ngang người.
An Sinh tức giận
khôn nguôi,
Chẳng dằn cơn
nóng toan thời rút gươm.
Quán Trí (Athéné)
Thần nữ hiện bên,
Dằn tay, nắm tóc,
nói riêng cùng chàng : (200)
An Sinh bày tỏ
phân trần:
Cớ chi Thần
Nữ hiện trong lúc này,
Nghe lời ngạo
ngược chẳng hay,
Chướng tai gai
mắt phơi bày thế gian.
Quán Trí Tuệ khẽ
xa gần:
Chớ nên nóng
tính, hãy dằn giận thôi.
Hạ Cơ (Héra)
Thần nữ truyền vời :
Xuống trần
khuyên nhủ những lời thẳng ngay .
Hãy nguôi cơn
giận hôm nay,
Chớ nên vì
bất bình này rút gươm. (210)
Làm cho xâu xé
anh em,
Hãy vì đại
cuộc, thiệt hơn xá gì !
An Sinh cúi mặt
vâng lời :
Cầu xin Thần nữ
xét soi tấm lòng,
Lời Thần răn
dạy xin vâng,
Tôi người tuân
lệnh các Thần trên cao.
Tra gươm dũng tướng
vái chào,
Quán Trí Tuệ thoáng
biến theo cánh hồng.
Về Thiên Sơn (Olympe)
chốn Thiên Đình,
Bàn đào tiên hội,
các Thần tiệc vui. (220)
An Sinh lòng vẫn
chưa nguôi,
Quay sang An Trích
tiếp lời hờn dai :
Đồ tham, mắt
chó, tim nai,
Chiến trường,
đột kích, ai người đấu tranh.
Còn người chết
nhát hậu quân,
Đến chia lợi
phẩm, lại dành phần hơn.
Làm Vua xương
máu của dân,
Người là Vua
những kẻ hèn ích chi !
Với ta lần
cuối lời này,
Cầm cây ngôn
trượng, ta nay thề là : (230)
Cây này, lá
chẳng mọc ra,
Lời ta vững
chắc như là núi cao.
An Kinh (Achéens)
hối hận ngày nào,
Dưới đòn kẻ
địch Hắc Tô (Hector) trận tiền.
Ra vào chiến
trận đảo điên,
Sĩ quân gục
ngã chiến trường thảm thương.
Dù người có
xé con tim,
Để mà hối
hận ô danh tướng tài.
Để cho chiến
trận thiệt thòi,
Lỗi lầm đốn
nhục của ngươi hôm nay. (240)
Nói rồi vất trượng
trên tay.
Ninh Tô (Nector)
Vương lão đến ngay khuyên rằng .
Cất lời mật
ngọt dỗ dành,
Bao nhiêu kinh nghiệm
quân trung luận bàn.
Đã ba thế hệ
trị dân,
Phi Lô (Pylos) thành
vững, muôn dân hùng cường :
Than ôi đau đớn
nào hơn !
Người chung
một giống An Kinh tranh phần.
Vua Bam (Priam)
con cái cười thầm,
Dân Troa sung
sướng, nức lòng nào hơn. (250)
Hai người cao
cấp Đa Niên (Daniens),
Giành nhau vì
gái, thiệt hơn bất hòa.
Hai người trẻ
tuổi hơn ta,
Lắng nghe ta
ngỏ, điều là thiệt hơn :
Hai người trách
nhiệm ba quân,
Giữa trong trận
chiến ngày càng khó khăn.
Dù làm Vua lắm
quyền hành,
Chẳng nên cướp
đoạt tranh giành mỹ nhân.
Chỉ nên lấy
đó làm phần,
Thưởng cho tướng
lĩnh trung quân, hiền tài. (260)
An Sinh phận
tướng làm tôi,
Chớ nên ỷ
sức tranh thôi, chẳng chừa.
Làm tôi dẫu
phận thiệt thua,
Trượng vàng
Thần Dớt, lệnh Vua tuân hành.
Dẫu người
sức mạnh hùng anh,
Mẹ người Thần
Nữ, ai tranh sức cùng.
Làm Vua trị
nước an dân,
Nào đâu xe ngựa,
thanh gươm chiến trường.
An Trích, phận
ngôi cửu trùng,
Hãy nguôi cơn
giận với cùng tướng quân. (270)
An Sinh, thành
lũy anh hùng,
Là người cột
trụ cuộc chinh chiến này.
An Gia Vương phán
quyết ngay:
Cám ơn Vương
lão tỏ bày thiệt hơn,
Nhưng người
này thói ngang tàng,
Muốn hơn tất
cả chẳng màng quân giai.
Muốn hơn hết,
chẳng vâng lời,
Cả Thần chẳng
nể, chi người làm Vua.
An Sinh hờn dỗi
chẳng vừa:
Ta người ương
ngạnh, chẳng ưa lệnh gì. (280)
Hãy sai khiến
kẻ khác đi,
Còn ta mặc kệ,
nói gì đến ta.
Một lời hãy
nhớ lấy là :
Ta không vì một
đàn bà đấu tranh,
Chẳng vì người,
chẳng ai cùng,
Của người
cứ lấy, ta không tranh giành.
Của ta mang đến
quân thuyền,
Chớ nên đụng
đến mà phiền ngọn lao.
Số phần sẽ
đẩm máu đào.
Nói rồi bước
thẳng đi mau xuống thuyền. (290)
Hội Đồng giải
tán, tan hàng,
Trở về tuyến
trận, bàng hoàng ba quân.
An Sinh về hậu
cứ thuyền,
Cùng bạn Ban Tuất
(Patrocle) và đoàn sĩ quan.
An Trích ra lệnh
chọn thuyền,
Hai mươi chèo lái,
vật mang tế thần.
Tận tay dắt bước
xuống thuyền,
Đưa nàng Sĩ Tuyết
má hồng về cha.
Uy Lĩnh (Ulysse)
điều khiển thuyền ra,
Hướng đền trực
chỉ, thuyền qua biển ngàn. (300)
An Gia ra lệnh tẩy
trần,
Rắc vôi, dẹp
rác, tế thần An Long.
Trên đồi cát
trắng biển xanh,
Bò, cừu cúng tế,
mùi hương ngát trời.
An Gia vương chẳng
nguôi ngoai,
Sai Tân, Âu Bạc
hai người vệ quan :(Talthybios: Tân Thy Bộc) Eurybate : Âu Thy
Bạc)
Hãy sang hậu
cứ An Sinh,
Kiệu nàng Băng
Tuyết (Briséis) má hồng về đây.
Nếu hắn chẳng
chịu cho ngay,
Bảo ta sẽ đến,
sự này xem sao ? (310)
Vệ quan lòng chẳng
muốn nào,
Bước qua đồi
cát đi vào hậu quân,
Nơi dinh thuyền
Nguyệt My Đông (Myrmidons),
An Sinh thoáng thấy,
đứng ngăn lối vào.
Hai người lặng
lẽ nhìn nhau,
Lòng đầy sợ
hãi, chẳng sao thốt lời.
An Sinh hiểu ý
nhạt cười :
Chào quan thị
vệ, vua vời người sang.
Các người vâng
lệnh Đại Vương,
Bắt nàng Băng
Tuyết, lệnh truyền phải theo. (320)
Ban Tuất ( Patrocle):
Vào dẫn nàng nào,
Bảo nàng vâng
lệnh, sang hầu nhà Vua.
Có Thần chứng
kiến cho ta,
Nhà Vua chẳng
biết đâu là sĩ liêm.
Nhỏ nhoi, lòng
dạ thấp hèn,
Đừng hòng có
lúc đi tìm đến ta.
Dù bao tai họa
xãy ra,
Đừng cầu ta
đến, xông pha trận tiền.
Ban Tuất vâng lệnh
bạn hiền,
Dẫn nàng Băng
Tuyết má hồng trao sang. (330)
Cho hai thị vệ
kiệu nàng,
Bước đi lưu luyến,
nhìn sang bồi hồi.
Kiệu vừa khuất
bóng sau đồi,
An Sinh nước mắt
bên trời luyến thương,
Ngồi bên đồi
cát mơ màng,
Biển tung bọt
trắng mênh mang chân trời.
Chắp tay cầu khẩn:
Mẹ
ơi !
Mẹ sinh con chốn
trần đời bon chen;
Vinh danh mẹ
cõi Thiên Cung,
Còn con nhục
nhã, đau thương cõi này. (340)
An Gia Vương
ỷ quyền uy,
Làm con nhục
nhã, giờ đây hận sầu.
Thê Túc, Thần
nữ biển sâu,
Lắng nghe tiếng
khóc khẩn cầu của con.
Thương con. Thần
nữ hiện bên,
Cầm tay xoa nỗi
oán hờn thương đau,
Chạnh lòng, khẽ
hỏi: Vì sao ?
Con ơi sao khóc,
sầu nào con mang ?
Nói đi con, nỗi
oán hờn,
Nỗi nào con
muốn , mẹ con giải giùm ? (350)
An Sinh đau khổ,
uất căm :
Mẹ ơi, con kể
ngọn ngành nguồn cơn,
Thê Bê (Thébè)
chiến trận căn nguyên,
Âu Thông (Eétion)
chiến bại trận tiền bại vong.
An Kinh chiến
thắng hào hùng,
Chiến công:
mỹ nữ, bạc vàng phân chia.
Phần vua An Gia
Đại Vương.
Có nàng Sĩ Tuyết
má hồng giai nhân.
Con gái tế tự
An Long,
Sĩ Tiết lễ
vật, khẩn lòng chuộc con.
Tỏ bày khăn
trắng, trượng vàng.
Hội Đồng Tướng
kính thần linh tha nàng. (360)
Riêng vua An Trích
tham lam,
Thốt lời giận
đuổi cha nàng đớn đau,
Cụ già buồn
tủi khẩn cầu,
An Long thần
đã báo thù thảm thương.
Tên thần bắn
xuống An Kinh,
Dịch thần gieo
rắc chiến trường thê lương.
Hội đồng quân
tướng luận bàn:
Mời tiên tri
đến, tỏ tường ra sao ?
Con đà khuyên
nhủ trước sau,
Tạ thần giận
dữ, hãy mau tha nàng. (370)
Ngờ đâu An
Trích oán hờn,
Thả nàng Sĩ
Tuyết, bắt đền phần con.
Mới vừa cho
thị vệ sang,
Bắt nàng Băng
Tuyết yêu thương mang về.
Mẹ ơi trả
hận con nghe !
Chỉ mình mẹ,
Dớt say mê lòng.
Vì lời mẹ
nói dịu dàng,
Vì hành động
mẹ đẹp lòng Thần Vương,
Con nghe từ chốn
Thiên Sơn,
Vây quanh Thần
Dớt xui nên tâu trình. (380)
Hạ Cơ (Héra)
và Hải Long Vương (Poséidon),
Quán Trí Thần
nữ họp cùng An Kinh.
Hãy quỳ bên
gối Thần Vương,
Cầu cho phần
thắng Troa dân nghiêng về.
Trừng trị An
Trích u mê,
Khinh thường
xúc phạm nặng nề đến con.
Thê Túc đau xót
lệ buồn :
Con ơi ta đã
nuôi con trưởng thành,
Nào ngờ đau
khổ phận dành,
Đời con ngắn
ngủi chiến tranh hận thù. (390)
Hãy lau nước
mắt thương đau,
Con ơi, vui vẻ,
chớ sầu thở than.
Thương con mẹ
sẽ lên đường,
Thiên Sơn cầu
khẩn Thần Vương phục thù.
Mệnh con ngắn
ngủi thương đau,
Binh đoàn hãy
tụ bên nhau gần thuyền.
Chớ nên nổi
giận bất bình,
Và con tuyệt
đối hãy ngừng giao tranh.
Dớt còn kinh
lý Đại Dương,
Chư hầu dự
tiệc nơi miền Hắc Phi (Ethiopie).
(400)
Mười hai ngày
nữa về đây,
Vì con mẹ sẽ
đến ngay Thiên Đình.
Mẹ lên đến trước
cửa đồng,
Cúi đầu cầu
khẩn tỏ lòng Thần Vương.
Rời con về biển
mênh mông,
Thê Túc rẽ sóng,
ngàn trùng nước mây.
An Sinh trống vắng
sầu bi,
Nhớ nàng đai ngọc
ra đi mà buồn.
Nói về Uy Lĩnh
dong thuyền,
Đem Sĩ Tuyết đến
trả nàng cho cha. (410)
Một trăm cừu
tặng làm quà,
Tế An Long cứu
độ qua dịch thần.
Thuyền vào bến
nước đền trong,
Xếp buồm chèo
giữa nắng hồng tà huy.
Bỏ neo trước
bến đền mây,
Kiệu nàng Sĩ Tuyết
trao tay cha nàng.
Chân thành tạ
những lỗi lầm,
Trước đền hương
khói cầu Thần chứng minh.
Sĩ Tiết, tế tự
An Long,
Vui mừng con gái
đợi trông, tạ tình. (420)
Được trăm cừu
để tế thần,
Cầu Thần Cung
Bạc nhủ lòng xót thương.
Ngừng cơn giận
dữ bắn tên,
Cho An Kinh được
thoát cơn hiểm nghèo.
Thần An Long đỉnh
mây cao,
Nghe lời cầu khẩn
thương đau cõi trần.
Chủ tế rắc lúa
mạch xong,
Nắm đầu vật
tế, cổ nâng lên bàn,
Đoản đao thọc
huyết máu tuôn,
Lột da, đùi tế
phủ lên mở chài. (430)
Đặt lên trên
lớp thịt tươi,
Cụ già đốt củi
lửa nơi bếp đình.
Tưới lên rượu
cháy lửa xanh,
Các thầy tế trẻ
cầm ghim năm chìa.
Trở cho đùi cháy
trên nia,
Cầu Thần phụng
hưởng đến tia lửa tàn.
Đến phần còn
lại tim gan,
Xẻ ghim, nấu nương
cỗ bàn tiệc vui.
Rượu ngon, nâng
chén cùng mời,
Phúc Thần tế
độ cho người thỏa thuê. (440)
Sau khi rượu thịt
no nê,
Cùng nhau múa hát,
bài vè thần ban.
An Đông nguôi giận
đổi lòng,
Chở che phù hộ,
dịch thần tiêu tan.
Chung vui bên ngọn
lửa tàn,
Uy Lĩnh từ giả
lui quân về thuyền.
Ngủ vùi say giấc
đêm đen,
Sương lam mờ mịt
bên đền mênh mông.
Bình minh bừng
ngón tay hồng,
Ra khơi thuyền
lại về trong lũy đồn. (450)
Thần An Long thổi
gió Nam,
Xuôi buồm căng
gió con thuyền sóng đưa.
Xanh xanh trời nước
gió đùa,
Trở về đồn
lũy quanh Troa vây thành.
Thuyền đen đậu
khuất ghềnh xanh,
Đẩy thuyền lên
bãi, về dinh báo cùng.
Hội Đồng Tướng
Lãnh vui mừng,
Yên lòng cơn dịch
đã tàn, tóc tang.
Về phần quân
tướng An Sinh,
Đóng yên bất
động vẫn căm hận lòng. (460)
An Sinh Phi Túc tướng
quân,
Chẳng thèm đi
đến Quân trung Hội đồng..
Chẳng còn chiến
đấu chung cùng,
Ngồi buồn nhìn
bóng chiều không, ra vào,
Lòng còn luyến
tiếc gươm đao,
Lòng còn vang vọng
tiếng gào ba quân.
Mười hai ngày
tiệc đã xong,
Các thần trở
lại Cung đình Thiên Sơn.
Thần Vương Dớt
dẫn thần tiên,
Ngàn mây trắng
mộng về miền Thiên Sơn.
Áo mây đỏ sắc
hoàng hôn,
Thần Vương đi
trước trên ngàn tượng mây.
Thiên Đình thoáng
đã đến ngay,
Dớt lui về đỉnh
non Tây một mình.
Thê Túc nhớ đến
lời con,
Thủy Cung vượt
sóng đội sương Thiên Đình.
Thần tử Cồ Nốt
(Chronos) một mình.
Ngồi xa một đỉnh
non thần hoang vu.
Bên Thần quỳ
gối cúi đầu,
Tay xoa gối trái,
tay râu vuốt càm. (480)
Dớt đà tê tái
bàng hoàng,
Người yêu trong
mộng, mơ màng Thiên Cung.
Dớt, Phụ Vương
các Thần tiên,
Xin Ngài vì thiếp
ban ơn phước này,
Con thiếp, mệnh
ngắn ngủi thay !
Lại còn bị
nhục hôm nay cõi đời,
An Gia Vương
vua cõi người,
Ỷ danh hiếp
đáp, đoạt đòi giai nhân.
Vốn là phần
thưởng chiến công,
Làm cho con thiếp
đau lòng héo hon. (490
Thương con khuya
sớm tủi buồn,
Xót đau lòng
mẹ ruột tằm chẳng yên.
Ngài ơi, thương
thiếp hãy nên,
Làm cho thắng
lợi Troa quân nghiêng phần.
Cho An Gia Vương
phải chịu đền,
Bồi thường
danh dự mới nên phục hồi.
Dớt im lặng chẳng
trả lời,
Láo liên xem có
ai nơi non thần,
Hạ Cơ, chằng
nữ vợ hiền,
Tha hồ vụng trộm
ai nâng râu cằm ! (500)
Lời nàng thỏ
thẻ dịu dàng :
Hứa cho Thần
thiếp chút ơn sủng này.
Xin Ngài hãy
gật đầu ngay,
Hay là từ chối
lắc lay râu càm.
Biết Ngài nể
sợ ai hơn,
Mấy khi thiếp
mới về bên Thiên Đình.
Thở ra Dớt tỏ
nỗi lòng :
Buồn thay nàng
bắt ta thành trái ngang.
Giúp làm sao
mụ vợ chằng,
Hạ Cơ lớn
tiếng oang oang nhức đầu. (510)
Trước chư thần
có nể đâu,
Vào ra tranh cải
ta nào vị thiên.
Bênh quân Troa,
nàng ghét hờn,
Ôi thôi nàng
hãy đi liền chớ nên.
Để Hạ Cơ
thấy nổi ghen,
Phần ta hứa
sẽ giúp nàng áp phe.
Cho yên công
việc mọi bề,
Yên tâm nàng
hãy trở về Thủy Cung.
Phần ta sẽ
gật đầu xong,
Kẻo mà tai vách,
mạch rừng thấy hay. (520)
Nói rồi Thần
Dớt chau mày,
Tóc tai dựng đứng
khẽ lay, gật đầu.
Thiên Đình sấm
động non cao,
Thê Túc từ giả,
phóng mau biển ngàn.
Chư Thần vội
vã đến nhanh,
Lấm la lấm lét
xem Thần quở ai ?
Hạ Cơ cũng đến
đánh hơi :
Mùi hương biển
mặn, chao ôi nồng nàn. !
Nữ Thần tằng
hắng hỏi rằng :
Thủy Cung mấy
thuở có Thần đến chơi ? (530)
Biết rồi, Ông
thích xa tôi,
Thích ngồi bí
mật nghỉ ngơi một mình.
Thích ngồi thương
nhớ tự tình,
Chẳng hay gỡ
mối tơ lòng đã xong ?
Thần Vương lấm
lét mới rằng :
Hạ Cơ chẳng
thể tỏ tường ý ta,
Dù bà là vợ
trong nhà,
Còn ta muôn kẻ
vào ra tâu trình,
Việc ta giải
quyết một mình,
Chẳng nên gặn
hỏi sự tình mà chi. (540)
Hạ Cơ trợn mắt
tức thì :
Láo chưa, Ông
dám nói gì riêng chung ?
Mấy khi tôi
hỏi ự tình,
Để Ông yên
lặng một mình mặc Ông.
Hôm nay tôi mới
biết rằng,
Đĩ Thần Thê
Túc, con ông Thủy Tề.
Đội sương
vượt biển đi về,
Vuốt râu, cọ
má, ngồi kề bên Ông.
Cẳng hay Ông
hứa gì chăng ?
Gật đầu sấm
chớp sáng trưng Thiên Đình. (550)
Phải chăng phục
hận An Sinh,
Làm cho quân
lính An Kinh tơi bời.
Vội vàng Dớt
thẹn đáp lời :
Quỷ chằng !
cứ tưởng rằng ai cũng mùi,
Ta đà dấu diếm
chi ai,
Chẳng gì có
thể làm tôi xa bà.
Chớ nên nổi
giận gào la,
Chớ mất bình
tỉnh lời ra hổn hào,
Hãy ngồi im
lặng xem sao,
Nghe lời ta chớ
ồn ào nói năng. (560)
Rằng đây là
chốn Thiên Đình,
Các Thần soi
mói, Thần trông, Thần dòm.
Hãy vì ta phải
nể nang,
Không thì ta
vả bể mồm thị uy.
Hạ Cơ nguôi giận
tức thì,
Bên chồng ngồi
xuống máu sôi nguội dần.
Trong Cung Điện
tiếng thì thầm,
Các Thần nheo mắt
luận bàn riêng chung.
Rồi cười khúc
khích mông lung,
Hỏa Thái Sơn (Héphaïstos)
tỏ với cùng Mẹ, Cha: (570)
Chớ nên cải
lộn trong nhà,
Các Thần tám
cõi dòm ra, nói vào.
Tiệc Thiên Đình
chớ ồn ào,
Các Thần đến
dự lòng nào được vui !
Mẹ nên giữ
tiếng giữ lời,
Nói lời êm
ái, cha thôi phiền lòng.
Cha, Thần mạnh
nhất các Thần,
Một lời mẹ
nhịn, Thiên Đình được vui.
Nói rồi Hoả Thái
nâng ly,
Chiếc cúp vàng
chạm hai quai, rượu hồng. (580)
Tay trao cho mẹ
thì thầm:
Mẹ ơi, nguôi
giận, trong lòng chớ lo,
Mẹ ơi, chớ
có tiếng to,
Con luôn bênh
vực giúp cho mẹ hiền,
Con từng vì
mẹ bị đòn,
Chẳng ai chống
cự phụ thân được mà.
Một lần giúp
mẹ ngày xưa,
Nắm chân, cha
ném con qua cõi trần.
Rơi cả ngày
đến chiều hồng,
Thổi núi lửa
Lâm Nốt (Lemnos), thợ rèn Sinh Tiên (sintiens) (590)
Đời như hơi
thở nhẹ nhàng,
Thiên Đình bất
tử, cõi trần phù dung .
Hạ Cơ nghe nói
cười dòn,
Đón cầm chiếc
cúp tay con vui cùng.
Nước cam lồ ngọt
mật ngon ,
Thần Hoả Thái
khẽ nỉ non rót mời.
Lê chân cà thọt
khắp nơi,
Làm thần tiên
cũng cười vui rộn ràng.
Thần An Long dạo
cung đàn,
Các nàng Muy (Muses)
hát lời vang êm đềm. (600)
Cung đàn tuyệt
diệu êm êm,
Lời thơ nào ngọt
môi mềm tiếng ca.
Cười vui cho đến
chiều tà,
Ai về cung nấy,
thướt tha mây hồng.
Cung Dớt lộng
lẫy vô cùng
Do Thần Hoả Thái
tay thần dựng xây.
Gối giường đã
sẵn an bày,
Thần Vương vào
giấc ngủ say mơ màng,
Hạ Cơ mới đến
nằm bên,
Cõi Thần dị mộng,
đồng sàn ai hay ! (610)
Chú thích:
Héra (Hạ Cơ) vợ
Thần Vương Zeus, Zeus sợ vợ, nhưng thích vụng trộm nhất
là với Thétis mẹ Achille.
Thiên trượng: Hy
Lạp ngày xưa để nói giữa đám đông, họ đặt ra cây thiên
trượng, thiên trượng trao ai người ấy mới nói, để tránh
mọi người nói cùng một lượt không ai nghe ai.
Eétion(Âu Thông)
là cha Andromaque(An Độ Mai) tức cha vợ tướng Hector, con cả
vua Priam..
Zeus: là con thần
Chronos. Zeus đã từng tranh nhau Thétis với Posséidon, nhưng vì
tiên tri báo điều tai họa nên phải gả Thétis cho vua Pélée,
sinh ra Achille. Achiulle có đôi chân chạy nhân nên còn gọi
là Phi Túc. Lemnos: Lâm Nốt, Lâm Môn vùng Mosychlos, núi lửa
là lò rèn của Thần Hoả Thái, tương truyền nơi đó Prométhé
đánh cắp lửa.
Achille (An Sinh) Con
nữ Thần biển Thétis(Thê Túc) và vua Pélée vùng Thessalie,
dân cư gọi là Myrmidon.(Nguyệt My Đông)
Atride Aggamemnon (An
Trích An Gia Đại Vương) Vua Mycènes: Tổng chỉ huy Liên quân
Hy Lạp.
Apollon: con thần
Zeus và nàng Latone.
Nestor (Ninh Tô) vua
Pylos. Vị vua cao tuổi nhất trong các thủ lĩnh Hy Lạp.
Hết
Chương I
Paris
1-5-2016
PHẠM
TRỌNG CHÁNH
*Tiến
sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.
|
|