Đôi lời giới
thiệu:
Bài viết dưới
đây là bản dịch Chương IV của tác phẩm Zen and Japanese Culture
(Thiền và văn hóa Nhật Bản, bản hiệu đính năm 1958, từ
trang 61 đến 85) của học giả Suzuki Daisetsu. Ông là một triết
gia chuyên về triết học Phật giáo, tên thật là Suzuki Teitarô
(Linh Mộc Trinh Thái Lang). Ông ra đời vào năm 1870 tại thành
phố Kanazawa, thuộc Ishikawa, một tỉnh miền trung đảo Honshuu
nhìn về hướng đại lục. Tốt nghiệp khoa triết Đại học
đế quốc Đông Kinh, từng tham thiền tại chùa Viên Giác (Engakuji)
ở Kamakura, nhận đạo hiệu Daisetsu (Đại Chuyết) nghĩa là
Kẻ Hết Sức Vụng Về. Năm 1897 ông sang Mỹ và làm việc
trong ngành xuất bản ở bang Illinois. Trong thời gian đó, đã
viết Discourse on the Awakening of Faith in the Mahayana (Đại thừa
khởi tín luận, 1900) và Outlines of Mahayana Buddhism (Đại thừa
Phật giáo khái luận, 1907). Sau khi về nước, dạy học ở
Đại học Gakushuuin (Tôkyô) rồi Đại học Ôtani (Kyôto). Đã
viết tất cả trên 30 tác phẩm bằng tiếng Anh và trên 120
tác phẩm tiếng Nhật. Được biết đến như một người
có công truyền bá tư tưởng Thiền tông đến cộng đồng
quốc tế. Mất năm 1966, thọ 96 tuổi.
Suzuki
Daisetsu (1870-1966)
Có thể chúng ta
lấy làm lạ khi nghe nói rằngThiền có liên quan với đời
sống tinh thần của giai cấp vũ sĩ Nhật Bản dưới một
dạng nào đó. Khi Phật giáo hưng thịnh ở bất cứ nước
nào và cùng với tông phái nào, bao giờ cũng là tín ngưỡng
của lòng từ bi. Trong suốt quá trình lịch sử biến thiên
của Phật giáo, không bao giờ ta thấy tôn giáo này vướng
vào những hành vi hiếu chiến. Thế thì cớ gì Thiền lại
có thể là yếu tố nung nấu tinh thần chiến đấu nơi người
vũ sĩ?
Trên đất Nhật,
Thiền đã gắn bó chặt chẽ từ những ngày đầu tiên với
lối sống của người samurai. Tuy nhiên, Thiền không kích thích
một cách lộ liễu những hành vi đẫm máu vốn là chức nghiệp
của lớp người này mà chỉ âm thầm hỗ trợ cho họ những
khi vì một lý do nào đó, họ tìm đến với Thiền. Thiền
chi viện trên hai phương diện: đạo đức và triết học.
Lý do là về mặt đạo đức, Thiền là giáo lý dạy con người
không được nhìn lại đằng sau mỗi khi đã dứt khoát quyết
định một hướng đi, còn về mặt triết học, Thiền coi
sự sống và cái chết chẳng có gì khác nhau. Thái độ không
ngoái đầu nhìn nếu có cũng là nhờ ở một sự xác tín
có tính triết lý. Thế nhưng, vì Thiền vốn là tôn giáo của
ý chí nên ảnh hưởng đến khía cạnh đạo đức hơn là
triết học trong tâm hồn của người vũ sĩ. Nếu nhìn từ
quan điểm triết học, ta thấy Thiền trọng trực giác hơn
luận lý bởi vì, đối lập với luận lý, trực giác mới
là phương tiện ngắn nhất để tìm đến chân lý. Do đó,
nơi Thiền, về cả hai mặt đạo đức và triết học, đã
có những yếu tố hấp dẫn tầng lớp quân nhân. Tâm hồn
quân nhân khá đơn thuần và đó là bản chất của người
vũ sĩ. Họ không thể chìm đắm trong những mày mò của tư
duy triết học nên dễ hòa hợp với tinh thần Thiền tông.
Đây có lẽ là nguyên nhân chính khiến người samurai cảm
thấy gần gũi với Thiền.
Hai nữa, phương
pháp tu hành của Thiền giản dị, trực tiếp, tự phán và
khắc kỷ. Những giới luật này đi đôi với tinh thần chiến
đấu. Người chiến sĩ bao giờ cũng chỉ nghĩ theo một hướng
và có mục đích duy nhất là chiến đấu, không bao giờ ngoái
lại đằng sau hay nhìn hai bên lề. Đối với họ, tiến thẳng
ra đằng trước để tiêu diệt kẻ thù là điều quan trọng
nhất. Do đó, họ không muốn bị một lực nào khác cản trở
cho dù nó đến từ thân xác, tình cảm hay trí thức. Nếu
đầu óc họ còn nuôi dưỡng một số hoài nghi về mặt tri
thức thì con đường tiến ra phía trước sẽ bị ngăn chặn,
trong khi đó những bám víu tình cảm và thân xác cũng trở
thành chướng ngại vật khi họ muốn tiến hành nghề nghiệp
của mình một cách có hiệu quả. Người chiến sĩ lỗi lạc
phải biết cấm dục hay khắc kỷ, nghĩa là có ý chí sắt
thép. Và điều này, Thiền có thể mang đến cho họ lúc cần
thiết.
Thứ ba là giữa
Thiền và tầng lớp quân nhân Nhật Bản vốn có một quan
hệ lịch sử. Đại sư Eisai (栄西Vinh Tây, 1141-1215) được
xem như người đầu tiên du nhập Thiền vào đất Nhật, thế
nhưng hoạt động của ông có phần bị cản trở ở vùng
Kyôto, lúc đó là trung tâm của các tông phái Phật giáo truyền
thống. Mở ra một tông phái mới nơi đây là một việc hầu
như bất khả vì sẽ gặp sự chống đối của Cựu Phật
giáo. Ở một chừng mực nào đó, Eisai đã phải đi đến
thỏa hiệp khi có thái độ hòa giải với hai giáo phái Tendai
(Thiên Thai) và Shingon (Chân Ngôn). Tuy vậy, trở ngại có tính
cách lịch sử này không hề xảy ra ở vùng Kamakura, cứ điểm
của chính quyền do họ Hôjô (北条Bắc Điều) lãnh đạo.
Mặt khác, Hôjô là một tập đoàn quân nhân kế nghiệp nhà
Minamoto, vốn đã dấy binh để chống lại nhà Taira và quí
tộc cung đình ở Kyôto. Giới công khanh quí tộc sở dĩ đánh
mất quyền kiểm soát chính trị vì họ đã trở nên quá ẻo
lả và nho nhã, thiếu quyết đoán, rốt cuộc thoái hóa và
suy sụp. Chính quyền Hôjô thì khác, họ nổi tiếng là những
người cấm dục và có kỷ luật đạo đức cao, đã xây dựng
được một hệ thống hành chánh vững chãi và một thiết
bị quân sự hùng hậu. Những người đứng đầu hệ thống
quyền lực mạnh mẽ đó đã biết tham Thiền, xem nó như chỉ
nam tinh thần cho mình, và về mặt tôn giáo, không đoái hoài
đến hệ thống tôn giáo có sẵn. Do đó, Thiền đã ảnh hưởng
trên rất nhiều phương diện đời sống văn hóa của người
Nhật kể từ thế kỷ 13, qua suốt thời Ashikaga và đến cả
thời Tokugawa.
Thiền không có
một triết học hay lý thuyết nào, cũng không phải là một
tập hợp những khái niệm hay mẫu mực trí thức, ngoại trừ
việc nó muốn kéo con người ra khỏi sự ràng buộc của sinh
tử bằng sự hiểu biết thông qua trực giác, phương tiện
đặc thù của nó. Chính vì thế mà Thiền rất nhu nhuyễn
để có thể thích ứng với bất cứ triết học hay chủ thuyết
đạo đức nào, chỉ cần là chúng không đi ngược với giáo
lý về trực giác của nó. Do đó, Thiền có thể kết hợp
với chủ nghĩa vô chính phủ hay chủ nghĩa phát xít, cộng
sản hay dân chủ, vô thần luận hay duy tâm luận cũng như
mọi thứ giáo điều chính trị và kinh tế. Dù sao, Thiền
luôn luôn cổ vũ cho một tinh thần cách mạng. Khi mọi sự
rơi vào ngõ cụt (chuyện xảy ra vào thời điểm khi người
ta chôn chân trong tập quán, chủ nghĩa hình thức hay những
chủ nghĩa có tính bảo thủ chấp nê), Thiền sẽ thể hiện
oai phong của nó và chứng tỏ mình là một thế lực cách
tân bằng cách phá vỡ hiện trạng. Về phương diện này,
tinh thần của thời đại Kamakura đã tỏ ra hòa điệu với
tinh thần đầy nam tính (viril) của Thiền tông.
Người Nhật có
câu:"Giáo phái Thiên Thai dành cho hoàng tộc, Chân Ngôn dành
cho quí tộc, Thiền là của người vũ sĩ và Tịnh Độ là
của đại chúng bình dân". Lời nói này rất phù hợp với
thực trạng của từng tông phái Phật giáo Nhật Bản. Hai
phái Thiên Thai và Chân Ngôn có nhiều nghi thức. Lễ lạc do
họ tổ chức đều phiền toái, xa hoa và tráng lệ, tương
xứng với sở thích của tầng lớp quí tộc tao nhã. Tịnh
Độ thì nhờ ở sự đơn giản của tín ngưỡng và giáo lý
nên thỏa mãn được đòi hỏi tinh thần của người bình
dân. Thiền là tôn giáo dựa trên sức mạnh của ý chí mà
sức mạnh này là cái mà người chiến sĩ cần thiết cấp
thời cho dù họ bắt buộc phải được soi sáng bởi trực
giác.
Nhân vật đầu
tiên trong đại tộc Hôjô đã tìm đến với Thiền là Tokiyori
(北条時頼1227-1263), người kế nghiệp Yasutoki, cha mình, lãnh
chức Shikken (執権Chấp quyền). Ông cho mời những thiền tăng
Nhật Bản từ Kyôto cũng như một số đại sư Trung Quốc
trực tiếp từ Nam Tống đến Kamakura rồi chuyên chú tham thiền
dưới sự hướng dẫn của họ. Cuối cùng, Tokiyori đã quán
triệt được thiền ý sâu xa và trở thành một tấm gương
sáng, kích thích gia thần của mình noi theo.
Ngột Am (兀庵Gottan,
1197-1276), thiền sư Trung Quốc, người năng nổ chỉ đạo
về Thiền cho Tokiyori suốt 21 năm trời đến ngày ông ngộ
đạo, đã để lại một bài kệ cho người học trò danh giá
của mình như sau:
Ngã vô
Phật pháp nhất thời thuyết,
Tử diệc vô
tâm vô sở đắc.
Vô thuyết vô
đắc vô tâm trung,
Thích Ca thân
kiến Nhiên Đăng Phật.
(Phật pháp ta
chưa từng phát biểu,
Ngài lại vô
tâm, không thấu hiểu.
Không nói, không
hiểu, lòng trống không,
Thích Ca mới
gặp Nhiên Đăng thật).
Tokiyori nắm vai trò
chấp chính một cách gương mẫu, năm 1263, ông qua đời ở
tuổi 37. Khi biết cái chết sắp đến kề bên, bèn mặc áo
cà sa, ngồi tọa thiền, tỉnh táo đọc bài thơ giã biệt
cuộc đời (jise no shi = 辞世の詩từ thế thi):
Nghiệp
kính cao huyền,
Tam thập thất
niên.
Nhất chùy đả
toái,
Đại Đạo đản
nhiên,
(Băm bảy năm
trời,
Kính nghiệp
cao vời.
Một chày đập
nát,
Đường Lớn
nay khơi).
Hôjô Tokimune (北条時宗1251-1284)
là con trai độc nhất của ông. Năm 1268, vừa 18 tuổi, Tokimune
đã nối nghiệp cha. Ông là nhân vật vĩ đại nhất mà quê
hương Nhật Bản đã sinh thành. Nếu không có ông, có lẽ
lịch sử đã đổi dòng và Nhật Bản không sao có được
một đất nước như ngày hôm nay. Ông giữ chức Shikken từ
năm 1268 cho đến 1284 và trong khoảng thời gian ấy, người
đã lập đại nghiệp hai lần đánh đuổi giặc Mông Cổ (Nguyên
khấu元寇) sang xâm lăng chính là ông vậy. Có thể xem ông
như sứ giả trời sai xuống để cứu nước nhà thoát khỏi
một hiểm họa tày đình. Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ
cứu vớt quê hương thì ông lìa trần. Cuộc đời ngắn ngủi
của ông rất đơn giản, hình như ông chỉ sinh ra để giải
quyết biến cố lịch sử nói trên. Lúc đó, ông là điểm
tựa của toàn thể quốc dân. Tinh thần kiên cường bất khuất
của ông đã dẫn đường cho cả một dân tộc. Tâm hồn và
thể xác của ông kết hợp với một quân đội đoàn kết
nhất trí đã tạo thành bức tường kiên cố ngăn chặn ba
đào trên biển miền Tây.
Hôjô
Tokimune (ảnh minh họa)
Hãy còn có thêm
một câu chuyện đáng ngạc nhiên nữa về nhân vật hầu như
siêu nhân này. Đó là chuyện ông còn đủ thời giờ và nghị
lực để theo đuổi việc tu Thiền dưới sự hướng dẫn
của các cao tăng đến từ Trung Quốc. Ông đã xây chùa cho
họ, đặc biệt là cho Phật Quang quốc sư (仏光国師Bukkô
Kokushi, 1226-1286) [1]
với mục đích an ủi vong linh nạn nhân chiến cuộc của cả
hai bên, Trung Quốc và Nhật Bản, trong thời gian quân Mông
xâm lấn. Ngày nay vẫn còn dấu tích ngôi mộ của ông trong
ngôi chùa Engakuji (Viên Giác Tự円覚寺) [2],
vốn được dựng lên vào thời đó. Một số thư từ các
bậc sư phó gửi cho ông hãy được bảo tồn, qua đó, chúng
ta có thể biết ông đã học Thiền một cách nghiêm cẩn và
đầy nhiệt tình như thế nào. Câu chuyện sau đây, tuy không
hoàn toàn xác thực, có thể giúp cho chúng ta tưởng tượng
được thái độ của ông đối với Thiền.
Người ta kể rằng
có một lần Tokimune hỏi đạo Phật Quang: "Kẻ địch lớn
nhất trong cuộc đời chúng ta là sự hèn nhát, làm sao có
thể thoát khỏi nó?".
Phật Quang đáp:
"Thế thì phải cắt bỏ nguồn gốc nơi nó xuất phát!"
Tokimune lại hỏi:
"Nó đến từ đâu vậy?"
Phật Quang: "Từ
chính Tokimune"
Tokimune: "Sự hèn
nhát là cái đệ tử ghét nhất trên tất cả mọi thứ, làm
sao nó có thể bắt đầu từ đệ tử cho được?".
Phật Quang: "Ngài
hãy xem mình cảm thấy gì khi vứt bỏ được cái tự ngã
có tên là Tokimune. Khi thực hiện được điều đó rồi, xin
hãy đến gặp bần tăng".
Tokimune: "Làm sao
có thể thực hiện được?"
Phật Quang: "Loại
trừ mọi ý nghĩ của mình".
Tokimune: "Làm cách
nào để bắt mọi ý nghĩ đứng bên ngoài cõi ý thức?"
Phật Quang: "Ngồi
xếp bằng thiền định và nhìn vào bên trong nguồn cội của
mọi ý nghĩ mà ngài tưởng tượng chúng là của Tokimune".
Tokimune: "Đệ tử
có bao nhiêu việc quốc gia phải lo liệu, thật khó lòng dành
thời giờ thiền định".
Phật Quang: "Bất
cứ khi nào nghĩ về quốc gia đại sự, hãy xem chúng như là
cơ hội giúp ngài nhìn thấu nội tâm của mình. Đến ngày
nào đó, ngài sẽ thấy được một Tokimune mà ngài cảm thấy
thân thiết".
Câu chuyện trên
dường như đã xảy ra giữa Thiền sư Phật Quang và Tokimune.
Khi Tokimune nhận được tin tức chắc chắn là quân Mông Cổ
xâm lược đã đến vùng biển Tsukushi (phía bắc đảo Kyuushuu),
ông bèn đến gặp Phật Quang Quốc Sư và nói:
"Cuối cùng, cái
biến cố quan trọng nhất của cuộc đời đệ tử đã xảy
ra!".
Phật Quang: "Thế
thì ngài làm sao để đối phó?"
Tokimune hô lên:
"Katsu! 喝" [3]
như thể muốn nạt nộ những địch thủ đang đứng trước
mặt mình.
Phật Quang vui mừng
bảo: "Đúng là sư tử con rống lên giống như sư tử vậy!"
(Chân sư tử nhi năng sư tử hống)
Với lòng can đảm
đó, Tokimune đã đương đầu được kẻ địch có binh lực
cực kỳ đông đảo đến từ lục địa và đánh đuổi chúng
quay về.
Dầu sao, dưới
nhãn quan sử gia, ta thấy Tokimune không thể nào làm nên chiến
công hiển hách nhất của Nhật Bản chỉ với lòng can đảm.
Ông đã lập kế hoạch chi li về những gì cần để thực
hiện điều đó và chiến lược ông hoạch định được quân
sĩ trên chiến trường cả nước tuân thủ để chống cự
đội quân xâm lăng mạnh mẽ ấy. Ông không hề ra khỏi căn
cứ Kamakura nhưng binh đoàn của ông ở chiến trường miền
Tây xa xôi đã chấp hành mệnh lệnh răm rắp và có hiệu
quả. Thực là một điều hết sức kỳ diệu vì thời xa xưa
ấy, chưa có phương tiện giao thông nào khác ngoài ngựa trạm.
Nếu Tokimune không có một lòng tin thiết thạch đối với
bộ hạ của mình thì nhất định ông không thể nào đạt
được thành tựu vinh quang như thế.
Bài điếu văn của
Phật Quang đọc trong tang lễ của Tokimune có thể tóm tắt
nhân cách của nhà lãnh đạo:
"Có 10 điều
phi thường trong cuộc đời ngài và nó tái hiện được 10
đại nguyện (pranidhâna) của chư Bồ Tát. Đối với mẹ,
ngài là người con hiếu, đối với thiên hoàng, là bậc tôi
trung. Ngài chân thành lo lắng cho hạnh phúc của thần dân,
khi học Thiền lại giác ngộ chân lý. Hành sử quyền lực
quốc gia suốt 20 năm trời mà không bao giờ tỏ ra vui hay giận.
Ngài đã dấy lên một luồng gió lớn quét sạch đám mây
đen của quân xâm lược nhưng không hề kiêu ngạo. Ngài lại
xây lên chùa Enkakuji (Viên Giác Tự) để an ủi vong linh nạn
nhân chiến cuộc của cả hai bên đối thủ[4].
Ngài biết kính trọng những người thầy đã soi sáng cho mình.
Tất cả những điều đó chứng minh rằng Đạo Pháp đã đưa
đường ngài đến với chúng tôi. Và khi sắp sửa từ giã
thế gian, ngài còn lấy hết hơi tàn để khoác lên tâm thân
yếu ớt tấm áo cà sa mà ta đem đến cũng như bình tĩnh chép
bài thơ tuyệt mệnh. Một người như ngài thật xứng đáng
được gọi là kẻ giác ngộ hay là hiện thân của một vị
Bồ Tát..."
Dĩ nhiên khi Tokimune
sinh ra đã có địa vị cao sang nhưng nhất định là sự tu
học Thiền đã giúp đỡ ông rất nhiều trong việc lãnh đạo
nhà nước cũng như trong cuộc sống riêng tư. Phu nhân của
ông cũng là một nhà tu Thiền thuần thành và sau khi ông chết,
bà đã cho xây một chùa sư nữ trên khu đồi núi đối diện
với chùa Engakuji.
Khi chúng ta nói
rằng Thiền là tôn giáo dành cho người vũ sĩ thì câu nói
này có một ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh của thời
Kamakura. Tokimune không chỉ là một chiến tướng, ông còn là
một chính khách mà mục đích là gìn giữ hòa bình. Lời khấn
nguyện của ông trong một buổi lễ Phật ở chùa Kenchôji
(建長寺Kiến Trường Tự) do nhà sư trụ trì chủ lễ, lúc
vừa nhận được tin quân Mông Cổ sắp qua xâm lăng lần đầu,
được biết đến như sau:
"Đệ tử Tokimune
chỉ có lời cầu xin tha thiết nhất là sao cho vương thất
được bền vững, Thiên hoàng mãi mãi là kẻ bảo vệ Phật
pháp, bốn bể phẳng lặng mà không tốn một mũi tên, tất
cả ác ma quỉ sứ đều bị qui phục mà không cần đến ngọn
giáo. Xin cho dân chúng được được hưởng sự cai trị khoan
dung của nhà cầm quyền để họ có một cuộc sống hạnh
phúc lâu dài, mong sao đầu óc u mê của con người được
ánh sáng đuốc tuệ soi sáng, để cho kẻ thiếu thốn được
no đủ, kẻ lâm nguy được giải cứu bởi vì có những tấm
lòng từ ái luôn luôn rộng mở. Xin chư thần gia hộ cho tất
cả mọi người và cũng mong sao các vị hiền thánh âm thầm
giúp đỡ để cho cuộc đời này mãi mãi tràn ngập điềm
lành."
Tokimune là một
Phật tử vĩ đại và là một nhà tu Thiền chân chính, nhờ
ở sự khuyến khích của ông mà Thiền đã lập được cơ
sở vững chắc ở vùng Kamukura, sau lan đến Kyôto và bắt
đầu đem ảnh hưởng tinh thần và đạo đức của nó trải
rộng đến các tầng lớp vũ sĩ. Sự qua lại thường xuyên
và những cuộc giao lưu giữa các thiền tăng Trung Hoa và Nhật
Bản còn vượt lên trên cả mối liên lạc thuần túy tôn
giáo có chung. Sách vở, tranh vẽ, đồ gốm, đồ sứ, đồ
dệt, đồ thêu...và nhiều mỹ thuật phẩm khác đã được
mang đến từ Trung Quốc, ngay cả thợ mộc, thợ nề, chuyên
viên kiến trúc và đầu bếp cũng theo chân các thiền tăng
vào đất Nhật. Như thế, mậu dịch với Trung Quốc phát triển
vào thời Ashikaga sau này vốn đã bắt nguồn tự thời Kamakura.
Được hướng dẫn
bởi những nhà lãnh đạo có cá tính mạnh như Tokiyori và
Tokimune, Thiền đã may mắn đi vào cuộc sống hằng ngày của
người Nhật , đặc biệt là trong sinh hoạt của giới vũ
sĩ. Sau khi đã ảnh hưởng trên vùng Kamakura, Thiền mở rộng
phạm vi đến Kyôto, nơi đây nó được sự ủng hộ mạnh
mẽ của các thiền sư Nhật Bản có mặt. Ở đó, Thiền đã
chinh phục được một số tín đồ trong vòng hoàng tộc, cao
hơn cả là các thiên hoàng Go Daigo後醍醐, Hanazono 花園và
những vị khác. Những ngôi thiền viện đồ sộ đã được
xây lên ở vùng Kyôto, các bậc đại sư khai sơn và những
pháp tự của họ bắt buộc phải là người gồm đủ đạo
đức và học vấn. Những vị Shôgun của Mạc phủ Ashikaga
đều cổ vũ cho Thiền tông. Nhiều tướng tá dưới quyền
họ tự nhiên cũng theo gương chủ. Nhân tài đương thời hầu
như chỉ có thể chọn một trong hai con đường: trở thành
thiền sư hay vũ tướng. Sự kết hợp tinh thần của hai lớp
người này sẽ cống hiến cho sự thành lập của một định
chế mà người ta thường nhắc tới dưới cái tên Bushidô
(武士道 Vũ sĩ đạo).
Ở đây, chúng ta
hãy thử đề cập đến một trong những liên hệ nội tại
giữa cách cảm nhận của người vũ sĩ và Thiền. Cái cuối
cùng đã làm nên Vũ sĩ đạo – như chúng ta thường hiểu
về nó – là hành động xem mình như một vị thần có sứ
mạng bảo vệ một cách cẩn trọng sự tôn nghiêm của người
vũ sĩ. Sự tôn nghiêm này bao hàm lòng trung thành, lòng hiếu
đễ và sự khoan thứ. Thế nhưng để hoàn thành được nghĩa
vụ này, họ cần phải thỏa mãn hai điều kiện: một là
rèn luyện bản thân theo một tinh thần khắc kỷ, không những
qua hành động thực tiễn mà cả trong tư duy triết học dọn
đường cho nó, hai là luôn luôn sẵn sàng đón nhận cái chết,
điều này có nghĩa là hy sinh bản thân không chút chần chờ
một khi tình thế đòi hỏi. Làm được chuyện đó, cần phải
được rèn luyện kỹ càng về tri thức lẫn tinh thần.
Có một tư liệu
người ta hay nhắc đến khi nói về những chiến dịch quân
sự của quân đội Nhật ở Trung Quốc vào thập niên 1930.
Tư liệu ấy có tên là Hagakure (葉 隠 Diệp ẩn) [5],
dịch nôm na là "Nấp dưới lá" bởi vì theo đó, một trong
những đức tính cần thiết của người samurai là làm điều
tốt cho người mà chẳng cần phơi bày cái tôi, không bao giờ
khua chiêng gióng trống nhưng giữ kín về mình. Trong việc
biên soạn quyển sách này, gồm các chú thích, giai thoại,
lời giáo huấn...có sự đóng góp của một thiền sư. Công
trình đã bắt đầu từ giữa thế kỷ 17 vào đời của Nabeshima
Naoshige鍋島直茂, lãnh chúa phiên Saga 佐賀trên đảo Kyuushuu.
Quyển sách nhấn mạnh rất nhiều về việc người samurai
phải sẵn sàng xả thân vào bất cứ lúc nào, bởi gì sách
cho rằng không có một sự nghiệp nào có thể hoàn thành nếu
con người không biết "điên rồ", nói cách khác, nếu con người
không vượt ra ngoài trạng thái ý thức bình thường để
cho phép sức mạnh tiềm ẩn của mình được bung ra. Sức
mạnh ấy nhiều khi có tính ác ma (devilish) nhưng chắc chắn
là một hành động siêu phàm đáng cho mọi người kinh ngạc.
Khi nào cái nắp của cõi vô thức bật ra, nó sẽ chỗi dậy
và vượt qua những hạn chế của cá nhân. Lúc đó cái chết
không còn làm cho người ta biết đau đớn và đây là khi mà
hình thức tu dưỡng của người võ sĩ có thể kết hợp được
với Thiền.
Thử đưa ra một
câu chuyện có chép trong Hagakure. Yagyuu Tajima no kami Munenori [6]
柳生但馬の守宗矩 là một danh sư về kiếm thuật và là
thày dạy kiếm cho Shôgun đương thời, Tokugawa Iemitsu徳川家光.
Một hôm, có người thuộc bộ đội cận vệ thân tín (hatamoto旗本)
của Shôgun tìm gặp ông xin được chỉ dạy về kiếm thuật.
Tajima bèn nói: "Theo chỗ ta nhìn, anh đã là một bậc sư phó
trong nghề kiếm. Hãy cho ta biết anh thuộc trường phái nào
trước khi chúng ta trở thành thày trò."
Người cận vệ
trả lời: "Tôi rất đỗi xấu hổ phải thưa với tôn sư
rằng tôi chưa từng học kiếm với ai cả."
"Anh định đùa
ta hay sao chứ? Nên nhớ rằng ta giữ vai trò chỉ nam (thày
dạy) cho Shôgun và nhận xét của ta chưa một lần lầm lẫn".
"Dám xin tôn sư
tha thứ cho nhưng tình thực, tôi chưa học ở đâu hết"
Vì người khách
cứ khăng khăng là mình chưa học ai, Tajima bèn trầm ngâm một
lúc rồi cuối cùng mới nói: "Nếu anh đã quả quyết như
thế thì chắc phải vậy thôi, nhưng ta vẫn nghĩ anh đã đạt
đạo trong một lãnh vực nào đó mà hiện nay, ta chưa hình
dung được"..
"Vâng, nếu tôn
sư đã khẳng định như thế thì tôi xin thưa. Đúng là tôi
có thành thạo một việc. Khi tôi còn bé, ý tưởng một ngày
nào đó mình sẽ trở thành samurai và phải coi thường cái
chết đã làm cho tôi từ đó, luôn luôn tranh đấu với nó
và cuối cùng vấn đề này không còn ám ảnh tôi nữa. Có
phải đây là điều mà tôn sư muốn ám chỉ?"
Tajima reo lên: "Đúng
thế! Đó là cái mà ta muốn nói. Ta rất vui vì đã xét đoán
không lầm. Bí quyết của nghề kiếm là giải thoát khỏi
sự ám ảnh của cái chết. Ta đã từng thao dượt với hàng
trăm đồ đệ nhưng không ai xứng đáng được nhận ấn khả
kiếm thuật từ ta. Anh không cần phải học hỏi về kỹ thuật
đánh kiếm nữa vì anh đã là một kiếm sĩ rồi". [7]
Chết là một vấn
đề trọng đại đối với mỗi chúng ta.Thế nhưng, ở nơi
người samurai, nó còn bức bách hơn vì họ là những chiến
sĩ, cuộc đời chỉ biết chiến đấu, mà chiến đấu nghĩa
là cái chết sẽ có thể xảy ra cho cả hai bên đối thủ.
Dưới thời phong kiến, không ai dự đoán được một cuộc
tranh phong chí tử có thể đến với mình lúc nào cho nên một
người samurai đúng nghĩa bao giờ cũng bị đặt trong tình
trạng báo động. Văn nhân kiêm vũ sĩ vào thế kỷ 17, Daidôji
Yuusan (大道寺友山Đại Đạo Tự, Hữu Sơn), đã viết những
dòng sau đây trong Budô Shoshinshuu (Vũ đạo sơ tâm tập武道初心集),
tác phẩm của ông:
"Ý tưởng có
tầm quan trọng sống còn đối với một người samurai liên
quan đến cái chết, điều họ phải đặt trước mặt mình
hết ngày đến đêm, hết đêm đến ngày, từ buổi sáng ngày
nguyên đán cho đến phút cuối đêm trừ tịch. Khi điều này
gắn bó chặt chẽ với anh, anh có thể thực hiện nhiệm vụ
của mình một cách chu toàn. Anh sẽ trung trinh với chủ, hiếu
hạnh với song thân và dĩ nhiên tránh được mọi thảm họa.
Không những anh có thể kéo dài được tuổi thọ mà uy đức
của anh cũng được nâng cao. Nghĩ mà xem, đời người hết
sức mong manh, nhất là cuộc đời của một samurai. Do đó,
anh phải coi mỗi ngày anh sống là ngày cuối và phải dùng
nó để hoàn thành nghĩa vụ. Không nên mơ ước mình sẽ sống
một cuộc đời dài lâu vì như thế anh sẽ dễ bị quyến
rũ bởi những việc chỉ làm lãng phí ngày giờ và sẽ chấm
dứt đời mình trong ô nhục. Đó là lý do tại sao mà tướng
Kusunoki Masashige đã căn dặn Masatsura[8],
con trai mình, là phải luôn sẵn sàng trực diện với cái chết".
Tác giả của quyển
"Vũ đạo sơ tâm tập" đã biết diễn tả một cách chính
xác những gì thường xuất hiện trong cõi vô thức của tâm
hồn người vũ sĩ. Ý thức về cái chết một mặt giúp cho
người ta biết nghĩ xa hơn ranh giới cố định của cuộc
đời hữu hạn, còn mặt khác siết chặt họ lại để cho
người ấy biết dùng thời gian của cuộc đời mình sao cho
đúng. Đương nhiên những người samurai nghiêm túc sẽ tìm
đến với Thiền để học cách thức đối phó với cái chết.
Nhân vì Thiền cho ta thấy nó có thể giải quyết vấn đề
này mà không cần thông qua học vấn, sự rèn luyện đạo
đức hay cả nghi thức, cho nên nó khá hấp dẫn đối với
tâm hồn đơn sơ chất phác của người samurai. Như vậy, giữa
trạng thái tâm lý của họ và đường lối giáo huấn trực
tiếp và thực tiễn của Thiền đã có một mối liên hệ
hợp lý.
Ngoài ra, xin hãy
đọc những dòng sau đây trong Hagakure:
"Vũ sĩ đạo
có nghĩa là ý chí sẵn sàng chết. Khi anh đang đứng ở một
ngã ba, hãy mau mắn chọn lấy con đường gần cái chết nhất.
Không cần phải có lý do gì đặc biệt ngoại trừ việc lòng
anh lúc ấy đã sẵn sàng. Có người sẽ cho rằng nếu anh
chết mà chưa đạt được mục đích thì chỉ là chết uổng,
chết như con chó (khuyển tử). Khi anh đang đứng giữa ngã
ba đường, xin đừng nghĩ đến việc đạt được mục đích
hay không. Ai cũng muốn sống, chẳng ai thích chết và khi chúng
ta mưu toan việc gì đó, đương nhiên đều vì cuộc sống.
Nhưng nếu lúc đó anh vuột mất mục đích mà hãy tồn sinh
thì anh đúng là một thằng hèn. Đây là một phán đoán nghiêm
trọng.Trong trường hợp anh chết khi vẫn không đạt mục
đích, có thể là chết như con chó – làm một hành động
điên rồ - nhưng trưởng hợp đó, anh không có gì phải hổ
thẹn. Đối với Vũ sĩ đạo, danh dự phải đặt lên trên
hết. Vì vậy, mỗi sáng mỗi tối, hãy cho ý thức về cái
chết hiện rõ trong đầu anh. Khi đủ quyết tâm để có thể
chết bất cứ lúc nào là anh đã đạt đến trình độ tối
thượng của Vũ sĩ đạo, đời anh không còn rơi vào lầm
lạc và anh sẽ hoàn thành được nghĩa vụ"
(Trích Hagakure, quyển
INhà bình luận có thêm vào đó mấy câu thơ của Tsukahara
Bokuden塚原卜伝 [9]:
Mononobu
no / manabuoshie wa / oshinabete
Sono kiwame ni
wa / shi no hitotsu nari
(Con nhà võ chỉ
phải /Học tập một điều thôi /
Điều cuối
cùng cần thiết /Là không e cái chết)
Theo Nagahama Inosuke長浜猪之助,
và thấy chép trong Hagakure, thì:
"Yếu quyết của
binh pháp là vận dụng toàn thể thân xác và tinh thần vào
mục đích đánh bại đối thủ. (Khi hãy còn lo lắng cho sự
an nguy của riêng mình, ta không thể nào thắng cuộc). Nếu
như địch thủ của ta cũng sẵn sàng xả thân để dành lấy
chiến thắng thì người ấy là một kẻ đáng gờm. Kết quả
cuộc thi đấu lúc ấy sẽ tùy thuộc vào lòng cương quyết
hay là số phận".
Một lời bình như
sau đây đi kèm:
"Araki Mataemon
(荒木又右衛門 tay kiếm lừng lẫy dưới thời Tokugawa) đã
chỉ dạy người cháu của ông ta, Watanabe Kazuma渡辺数馬,
khi cả hai sắp đối đầu với kẻ địch của họ trong trận
đánh một mất một còn: " Cứ để địch thủ cắt sém da
ngươi nhưng ngươi phải đâm vào thịt hắn; cứ để hắn
đâm vào thịt ngươi nhưng ngươi phải xẻ xương hắn; cứ
để hắn xẻ xương ngươi nhưng ngươi phải lấy được tính
mạng hắn". Ở một chỗ khác, Araki lại có lời khuyên: "Khi
ngươi so kiếm với kẻ địch, phải luôn luôn sẵn sàng chết
dưới tay hắn. Khi nào ngươi còn nuôi ý nghĩ làm sao để
thoát chết thì ngươi sẽ toi mạng".
Một đoạn sau của
Hagakure có chép:
"Người samurai
chỉ xứng đáng nếu anh ta biết vượt khỏi vòng sinh tử.
Khi cho rằng mọi sự đều bắt đầu từ cái tâm (vạn năng
nhất tâm) là muốn khẳng định rằng có một trạng thái
gọi là tâm (hữu tâm). Thế nhưng vấn đề là khi cái tâm
của ta còn bám vào vòng sinh tử thì phải vứt bỏ nó đi
nếu muốn làm nên những chuyện phi thường".
Điều này có nghĩa
là mọi việc sẽ thành tựu khi ta đạt đến trạng thái "vô
tâm" 無心 (no-mind-ness) như trong câu nói của Thiền sư Takuan沢庵禅師,
sẽ được nhắc đến bên dưới. "Vô tâm" là trạng thái
tinh thần mà con người không còn bị phiền nhiễu bởi vấn
đề sống chết (tử/ bất tử).
Thiền
sư Takuan Sôhô
(Trạch
Am Tông Bành, 1573-1645)
Chúng ta vừa nhắc
đến tên tuổi của Tsukahara Bokuden. Ông là một trong những
kiếm sĩ đã thấu hiểu đâu là sứ mệnh của kiếm thuật.
Ông không xem kiếm như vũ khí sát thương nhưng là một công
cụ để rèn luyện tinh thần. Trong truyện ký về cuộc đời
ông, có hai giai thọai nổi tiếng:
Có lần Bokuden đi
trên chiếc thuyền chèo qua hồ Biwa với một số hành khách.
Trong bọn có một samurai dáng điệu mạnh bạo, cử chỉ hung
hãn, ngang ngược. Anh ta khoe khoang tài nghệ, tự cho rằng mình
là tay kiếm cừ khôi nhất trần đời. Đám khách trên thuyền
ngồi lắng tai nghe những lời kênh kiệu ấy trong khi Bokuden
đôi mắt cứ lim dim như không thèm để ý đến sự có mặt
của anh ta. Điều đó làm phật ý anh chàng nên hắn mới đến
gần Bokuden và lay vai ông hỏi:
- Nhà ngươi cũng
là kẻ đeo hai thanh kiếm, sao ngươi không có lấy một lời?
Bokuden bình tĩnh
đáp:
- Kiếm thuật của
tôi khác hẳn ông. Tôi không dùng nó để thắng người khác
nhưng chỉ làm sao để khỏi bị đánh bại.
Câu nói của Bokuden
chỉ làm cho anh chàng giận dữ:
- Thế ngươi thuộc
trường phái nào?
- Trường phái
của tôi là mutekatsu 無手勝 (hay "thắng với tay không"
nghĩa là đánh bại địch thủ mà không cần tới kiếm).
- Cớ sao ngươi
lại mang theo kiếm để làm gì?
- Để mà đánh
đuổi những động cơ ích kỷ chứ không nhắm giết ai cả.
Lúc ấy, người
kia tỏ ra chịu đựng hết nổi nên bực tức đặt câu hỏi:
- Như vậy ngươi
dám dùng tay không để đấu với kiếm của ta chăng?
- Tại sao không?
Người samurai hung
hãn mới bảo phu trạo tấp thuyền vào bờ gần đó nhất
nhưng Bokuden gợi ý là nên đi đến một hòn đảo xa hơn là
đất liền để khỏi liên lụy đến những người kéo tới
xem vì hiếu kỳ. Con thuyền bèn bơi đến một hòn đảo lẻ
loi nằm xa hơn chỗ đó. Lúc chưa cập bến thì người samurai
kia đã nhảy ra khỏi khoang lên bờ, tuốt ngay kiếm chuẩn
bị giao đấu. Trong khi ấy, Bokuden chậm chạp tháo giây đeo
kiếm và trao vũ khí của mình cho người phu trạo. Mọi người
đang tưởng là Bokuden sẽ nhảy lên bờ như người kia thì
thoắt cái, ông đã chụp lấy mái dầm, ấn mạnh nó vào vạt
đất, đẩy con thuyền quay ngược ra giữa hồ. Thế rồi,
thuyền lướt nhanh khỏi đảo, đi vào vùng nước sâu hơn
và không còn bị người kia quấy nhiễu nữa. Bokuden lúc đó
mới mỉm cười và bảo:
- Đây là trường
phái "không dùng kiếm" của tôi.
Một giai thoại
thú vị khác đã được kể lại để mô tả trình độ chế
ngự lưỡi kiếm của Bokuden đã vượt xa kỹ năng đánh kiếm
bình thường như thế nào. Ông có ba người con trai, cả ba
đều theo đòi kiếm thuật. Ông muốn thử trình độ võ nghệ
của họ nên đem đặt một cái gối ở bên trên tấm màn
ở lối vào gian phòng mình, làm sao cho hễ có ai vén màn bước
vào, chỉ cần động nhẹ cánh màn sẽ làm cho chiếc gối
rơi xuống đầu.
Bokuden gọi người
con cả vào phòng trước. Khi tiến tới gần, cậu ta nhận
ra có cái gối đặt bên trên bức màn nên lấy nó xuống rồi
đi vào, xong đặt gối lại chỗ cũ. Ông cho gọi người con
thứ. Cậu này vén tấm màn lên và khi chiếc gối rơi xuống
bèn nhanh tay bắt lấy nó và cũng cẩn thận đưa về chỗ
cũ. Sau đến lượt cậu út vén tấm màn của bước vào phòng.
Cậu ta đột ngột đi vào làm cho cái gối rơi trúng ngay cần
cổ. Nhưng cậu đã chém nó làm đôi trước khi chiếc gối
chạm mặt sàn.
Bokuden lúc đó
mới bình phẩm: "Này thằng cả, con là kẻ đã đạt đạo
trong kiếm thuật". Nói xong, ông tặng cho cậu ta một thanh
kiếm. Đối với cậu hai, ông bảo: "Con còn phải trau giồi
chăm chỉ hơn nữa!" nhưng về cậu út, ông tỏ ra vô cùng
nghiêm khắc vì ông xem cậu ta như một sự hổ thẹn của
dòng họ.
Takeda Shingen 武田信玄(1521-1573)
và Uesugi Kenshin 上杉謙信(1530-1578) là hai danh tướng Nhật
Bản vào thế kỷ 16, thời mà đất nước này không ngừng
có những cuộc chiến tranh giữa các tiểu quốc. Tên của
hai ông thường được đặt bên cạnh bởi vì lãnh địa của
họ, một ở phía bắc và một ở miền trung Nhật Bản, vốn
nằm sát với nhau và cả hai đã nhiều lần có những cuộc
thư hùng. Hai ông tỏ ra đồng tài cân sức trong lãnh vực
quân sự cũng như cai trị, và cả hai đều là nhà tu Thiền.
Khi Kenshin nghe tin dân chúng trong phần đất Shingen quản hạt
đang bị thiếu muối trầm trọng, ông bèn cung cấp muối cho
họ từ tỉnh của mình, bởi vì phần đất Echigo của ông
nhìn ra biển Nhật Bản nên sản xuất được rất nhiều [10].
Trong một trận đánh ác liệt ở Kawanakajima川中島, Kenshin
thiếu kiên nhẫn khi thấy binh đoàn của mình tiến quân chậm
chạp nên quyết định dứt điểm trận đánh nội ngày hôm
ấy bằng cách tự mình đem quân xông thẳng vào bản bộ của
Shingen. Chợt thấy viên đại tướng của địch đang ngồi
yên trên chiếc ghế chỉ huy giữa doanh trại và bên cạnh
chỉ có vài ba cận vệ, Kenshin bèn tuốt kiếm ra và bổ xuống
đầu Shingen, vừa hỏi một câu thông thường của nhà Thiền:
"Khi gặp trường hợp thế này, ngươi phải nói thế nào?".
Shingen không hề dao động, đã trả lời: "Một hạt tuyết
bên trên lò hồng" (Hồng lô thượng nhất điểm tuyết! 紅炉上一点雪)
và ông ta đã đánh bật lưỡi kiếm hăm dọa của địch thủ
bằng cái quạt sắt dùng để chỉ huy (thiết bài). Đối đáp
(mondô問答) đầy thiền vị nói trên có thể chỉ là hư cấu
nhưng câu chuyện được kể lại cho thấy hai vị tướng lãnh
kiêm nhà tu hành kia là những người rất ái mộ Thiền.
Hồng
lô thượng nhất điểm tuyết
(ảnh
minh họa)
Kenshin đã tích
cực tham thiền dưới sự chỉ giáo của một cao tăng tên
là Ekiô 益翁 (Ích Ông) và mọi sự bắt đầu như sau đây.
Lúc đó Ekiô thuyết pháp về "bất thức" 不識 ( = "Ta không
biết"), một yếu quyết của Bồ Đề Đạt Ma [11]
và Kenshin đang đứng trong cử tọa. Ông đã có sẵn một số
kiến thức về Thiền và muốn thử sức vị tăng này nên
mới ăn mặc như một samurai bình thường để không ai nhận
ra và đang chờ cơ hội. Bất ngờ vị cao tăng quay mặt nhìn
Kenshin, đặt ngay câu hỏi: "Này tướng công! Chẳng hay Ngài
có biết ý nghĩa về chữ "bất thức" của Đạt Ma không vậy?".
Kenshin bị hỏi thình lình, không chuẩn bị kịp câu trả lời
nên đâm ra lúng túng. Thấy thế Ekiô mới tiếp tục: "Thưa
tướng công, tại sao ngài không trả lời tôi hôm nay trong
khi vào những dịp khác, lúc nào ngài cũng tỏ ra hùng biện?" [12]
Kenshin không còn dám tự phụ nữa và từ đó chịu khó chăm
chỉ tham Thiền dưới sự chỉ đạo của Ekiô. Nhà sư thường
khuyên ông: "Nếu muốn thấu hiểu Thiền, tướng công cần
sẵn sàng quên đi tính mạng và phải dám đâm đầu xuống
vực thẳm của cái chết".
Kenshin đã để
lại lời di huấn như sau cho đám gia thần:
"Kẻ nào bám
víu lấy sự sống sẽ bị chết, còn kẻ dám thách đố cái
chết mới sống còn. Cái quan trọng nhất là tâm chí của
mình. Phải nhìn thẳng vào nội tâm và khi nắm chặt lấy
nó rồi, các ngươi sẽ thấy trong lòng mình có cái gì cao
cả hơn sống chết. Vật đó dù dìm xuống nước cũng không
chìm, thui trong lửa cũng không cháy. Bản thân ta đã có kinh
nghiệm tìm ra cái samâdhi (tam muội) mà ta đã nói cho các ngươi
biết, khi ta nhìn vào bên trong con người mình. Kẻ nào còn
chần chờ không vứt bỏ sự sống và không gắn bó với cái
chết thì không phải là người chiến sĩ thực sự."
Shingen cũng đề
cập đến Thiền và cái chết trong "Shingen Kahô" (Tín Huyền
gia pháp信玄家法), tiêu chuẩn đạo đức áp dụng cho gia
đình và bộ hạ:
"Các ngươi hãy
biết tôn kính Thần Phật. Khi sự suy nghĩ của mình bắt nguồn
từ Phật tâm, các ngươi sẽ được tăng thêm sức mạnh.
Thế nhưng nếu vì những động cơ xấu xa mà muốn chiến
thắng kẻ khác thì các ngươi sẽ lâm vào cảnh nguy khốn
và đi đến chỗ diệt vong. Thứ đến, các ngươi hãy chuyên
chú tu Thiền. Thiền không có một bí quyết nào khác hơn là
sự suy nghĩ nghiêm túc về lẽ sinh diệt".
Qua những lời phát
biểu trên đây, chúng ta thấy giữa Thiền và cuộc sống của
người chiến sĩ vốn có một liên hệ nội tại rất mật
thiết. Điều đó đã được thấy qua hành động của các
vị thiền sư, nhiều khi họ coi cái chết như trò đùa. Thầy
của Shingen là hòa thượng Khoái Xuyên 快川(Kaisen), trụ trì
chùa Erinji 恵林寺(Huệ Lâm Tự) vùng Kai甲斐. Sau khi Shingen
mất, ngôi chùa này bị quân đoàn Oda Nobunaga bao vây vào ngày
mùng 3 tháng 4 năm 1582 vì các tăng nhân ở đấy từ chối
nộp những kẻ địch của Nobunaga đang tị nạn bên trong.
Toán quân đã buộc chư tăng kể cả Khoái Xuyên phải leo lên
trên ngôi lầu cao nhất của sơn môn. Kế hoạch của họ là
sẽ đốt rụi khu vực và thiêu sống những kẻ ương ngạnh
muốn chống trả. Các nhà sư theo lệnh của hòa thượng trụ
trì, tụ tập lại và bình tĩnh ngồi kiết già trước tượng
Phật. Hòa thượng Khoái Xuyên mới thuyết pháp cho họ lần
cuối với cung cách bình thường mọi ngày. Ông bảo: "Ngọn
lửa sẽ bao phủ chúng ta, các ngươi chuyển dịch Thiền luân
của Đạt Ma bằng cách nào trong hoàn cảnh nguy ngập này?
Mỗi người hãy lần lượt đọc một câu kệ nói lên bản
ý!". Chư tăng bèn trình bày quan điểm tùy theo trình độ giác
ngộ của họ. Khi tất cả phát biểu xong, đến lượt hòa
thượng trụ trì đọc bài kệ của mình rồi tất cả bắt
đầu tư thế hỏa định tam muội (samâdhi). Bài kệ của Khoái
Xuyên như sau:
An Thiền
bất tất tu sơn thủy,
Diệt khước
tâm đầu hỏa tự lương.
(Muốn Thiền
lọ kiếm nơi sơn thủy /
Diệt hết tâm
mình, lửa mát thôi)
Từ một góc nhìn
nào đó, Nhật Bản của thế kỷ 16 là thời điểm đã hun
đúc những con người biết sống đẹp như thế. Lúc đó đất
nước này bị xâu xé tan hoang về cả hai mặt chính trị lẫn
xã hội. Trên toàn cõi, các lãnh chúa không ngừng giao tranh.
Dĩ nhiên, dân chúng là kẻ phải hứng chịu nhiều đau khổ
nhất. Thế nhưng những cuộc tranh phong chết chóc để dành
lấy ưu thế và mặt quân sự và chính trị này lại đẻ
ra cơ hội rèn luyện sức mạnh tinh thần và đạo đức của
con người đến chỗ cùng cực. Tinh thần hào hùng ấy được
biểu lộ trong nhiều tình huống của cuộc sống. Chúng ta
có thể khẳng định rằng những đức tính làm nên Vũ sĩ
đạo đã thành hình vào giai đoạn này. Shingen và Kenshin lại
là những nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp lãnh chúa quân
nhân đó. Họ đều can đảm và không hề xao xuyến khi phải
trực diện cái chết. Họ thông minh, đởm lược không chỉ
trên chiến trường mà cả trong việc cai trị thần dân; họ
không hề là những vũ sĩ ngu độn và vô cảm nhưng đầy
văn tài và có lòng tin tôn giáo sâu sắc. Điều đáng chú
ý là Shingen và Kenshin đều là những Phật tử vĩ đại. Tên
thế tục của Shingen là Harunobu ((Tình Tín晴信) và Kenshin
là Terutora (Huy Hổ輝虎) nhưng cả hai được biết nhiều hơn
dưới pháp danh hơn là tục danh. Thời trẻ, họ được nuôi
dạy trong các thiền viện, đến tuổi trung niên, hai người
đều xuống tóc và được gọi là nyuudô 入道(nhập đạo)
[13] tức cư sĩ Phật giáo. Kenshin độc thân và ăn chay trường
chẳng khác một nhà tu.
Như những người
Nhật có văn hóa, hai ông cùng yêu thiên nhiên và đã làm thơ
bằng Hòa văn lẫn Hán văn. Một trong những bài thơ do Kenshin
sáng tác, có một bài ông viết trong lúc hành binh ở một
tiểu quốc bên cạnh, như sau đây:
Sương
mãn quân doanh thu khí thanh,
Sổ hàng quá
nhạn nguyệt tam canh.
Việt sơn bình
đắc Năng châu cảnh,[14]
Già mạc gia
hương hoài viễn chinh.
(Sương che doanh
trại, lạnh hơi thu /
Đàn nhạn giăng
trời, đêm đã sâu /
Núi Việt đảo
Năng nào khác cảnh /
Quê hương chừng
ngóng bóng chinh phu).
Lòng yêu thiên nhiên
của Shingen không hề kém người đối thủ vùng Echigo (越後Việt
Hậu). Có lần khi ông đến thăm ngôi chùa nằm một nơi xa
xôi trong lãnh địa, nơi thờ Bất Động Minh Vương 不動明王(Fudô
Myô-ô, Acalavidyâ-râya), hòa thượng trụ trì thiền viện bên
cạnh đã mời ông ghé chơi trên đường về. Lúc đầu Shingen
thoái thác, cho biết mình đang chuẩn bị cho một cuộc hành
binh trong những ngày sắp tới nên không có thời giờ đến
viếng và hẹn rằng khi xong chiến dịch, ông nhất định sẽ
đến thăm nhà sư. Thế nhưng hòa thượng trụ trì (không biết
có phải là một trong những người về sau sẽ chịu thiêu
sống dưới bàn tay của bộ hạ Oda Nobunaga hay không) đã khẩn
khoản: "Hoa anh đào giờ đây đang độ nở, bần tăng đã
sửa soạn một chỗ ngồi thật đắc địa để ngài có thể
ngắm cảnh sắc mùa xuân. Xin ngài chớ từ chối đến đây
thưởng hoa". Shingen lúc đó mới chấp thuận và bảo: "Không
gặp mặt hoa đã là chuyện khó tha thứ mà ta cũng không thể
nào phụ lòng chiếu cố của hòa thượng được." [15]
Để tỏ lòng biết
ơn đối với dịp may hiếm có được xem hoa và đàm đạo
với nhà sư, Shingen đã viết nên những lời thơ sau đây bằng
Hòa văn:
Saso hazuba
/ kuyashi kara mashi / sakurabana /sate kon haru wa / yuki no furu tera.
(Nếu không nhận
lời mời / Sẽ tiếc mãi dịp may / Ngắm anh đào nở đầy
/ Xuân sau nhỡ khi đến / Chùa nằm giữa tuyết bay)
Niềm vui tao nhã tìm
thấy nơi thiên nhiên của hai vũ tướng Shingen và Kenshin, cho
dù khi họ đang sống giữa cảnh chiến tranh, được xem như
là cái thú fuuryuu 風流 (phong lưu). Ở Nhật, ai không biết
đến thú fuuryuu đều bị xem như là kẻ vô văn hóa. Tình
cảm này không chỉ có tính cách thẩm mỹ mà còn hàm ý tôn
giáo nữa. Điều đó có lẽ cũng là tâm cảnh đã đẻ ra
tập quán nơi những người Nhật có văn hóa là viết một
câu thơ bằng chữ Hán (shi) hay bằng chữ Nhật (uta) trước
khi giã biệt cuộc đời. Câu thơ đó có tên là jise no shi
辞世の詩 (từ thế thi), jise no uta 辞世の歌 (từ thế ca).
Người Nhật đã được huấn luyện để biết dành lấy một
giây phút nhàn tĩnh giúp cho họ thoát ra ngoài tình trạng phấn
khích mà nhiều khi họ phải đương đầu. Cái chết là một
tình trạng nghiêm trọng tập trung mọi sự chú ý nhưng những
người Nhật Bản có văn hóa đều nghĩ rằng họ bắt buộc
phải siêu việt lên trên hoàn cảnh đó để có thể nhìn
nó một cách khách quan. Tập quán để lại một bài thơ lúc
lâm chung, cho dù không được áp dụng một cách phổ quát
nơi mọi nhà trí thức Nhật Bản ngay cả dưới thời phong
kiến, dường như đã bắt đầu trong đám các thiền sư và
tín đồ của họ dưới thời Kamakura. Khi Đức Phật nhập
diệt, ngài đã cho gọi chư đệ tử đến bên mình và thuyết
pháp một lần cuối. Việc này hình như đã được Phật giáo
đồ ở Trung Quốc bắt chước nhưng đặc biệt nơi Thiền
tông thì thay cho di huấn gửi lại người đi theo, các thiền
sư thường để thi ca tóm tắt nhân sinh quan của họ.
Từ thế thi của
Takeda Shingen là câu nói ông trích dẫn từ văn học Thiền
tông:
Đại
để hoàn tha cơ cốt hảo,
Bất đồ hồng
phấn tự phong lưu
Xương thịt
mất đi về chỗ cũ /
Chẳng tô hồng
phấn cũng xinh tươi)
Hai câu này nói lên
sự hoàn hảo tuyệt đối của Hiện Thực (Reality), từ nơi
đó tất cả chúng ta đã đến và đều sẽ trở về. Đó
là một thế giới muôn màu muôn vẻ, thoắt hiện thoắt biến,
trở lại không ngừng nhưng bên trong vẫn giữ y nguyên một
vẻ đẹp toàn bích.
Uesugi Kenshin thì
sáng tác, ông để lại 2 bài, một bằng Hán thi, một bằng
thơ Waka:
Nhất
kỳ vinh hoa nhất bôi tửu,
Tứ thập cửu
niên nhất thụy mộng.
Sinh bất tri
tử diệt bất tri,
Tuế nguyệt
chỉ thị như mộng trung.
(Một kiếp vinh
hoa, một chén say /
Bốn mươi chín
tuổi, mộng hồ đầy /
Sống không biết,
chết làm sao biết /
Năm tháng chi
hơn giấc bướm dài).
Gokuraku mo /
jigoku mo madzu
wa /
Ariake no / tsuki
no kokoro ni /
kakaru kumo nashi
(Cực lạc và
địa ngục /
Nghĩ đến chỉ
thêm rầy /
Như vầng trăng
về sáng /
Lòng không vương
gợn mây )
Sau đây xin nói đến
cái chết của những người samurai thời Kamakura được thuật
lại trong bộ sử truyện Taiheiki 太平記 (Thái Bình Ký). Cùng
với câu chuyện về các nhà sư chùa Erinji bên trên, nó sẽ
chứng minh được ảnh hưởng của Thiền đối với Vũ sĩ
đạo, đặc biệt qua thái độ của người samurai trước cái
chết.
Trong số gia thần
của Hôjô Takatoki北条高時, chức Shikken cuối cùng dòng họ
Hôjô, có người tên là Shiaku Shinsakon Nyuudô塩飽新左近入道.
Ông không phải là chức sắc cao cấp cho lắm trong hàng ngũ
samurai ở Kamakura. Khi sắp sửa tự sát để tùy tùng chủ
quân, người đã đến bước đường cùng, ông cho gọi Saburôzaemon
Tadayori三郎左衛門忠頼, cậu trưởng nam của mình đến và
nói: "Kamakura đã đến ngày tàn, địch quân đang bao vây tứ
phía. Ta sẽ chia sẻ số phận với tướng công như một bầy
tôi trung của ngài. Riêng con còn trẻ, chưa ra hầu việc và
chưa hề nhận ơn mưa móc. Vậy con hãy lánh nạn và khi tính
mạng được bảo toàn, tìm cách xuất gia, nương nhờ cửa
Phật để tụng kinh siêu độ cho chúng ta. Sẽ không có ai
chê trách con về điều ấy đâu!"
Tuy vậy, Saburôzaemon
không muốn tuân theo lời khuyên hợp lý của cha chút nào.
Anh thưa: "Cho dù bản thân con chưa hề xuất sĩ và không được
phục vụ tướng công nhưng con là con của cha nên đã được
nuôi dạy và lớn lên dưới sự bảo bọc quảng đại của
ngài. Nếu con đã đi tu thì đó là một chuyện khác. Nhưng
sinh ra trong một gia đình vũ sĩ, làm sao con có thể bỏ tướng
công và phụ thân để thoát hiểm bằng cách trở thành tăng
lữ. Không có sự nhục nhã nào to lớn hơn điều đó! Nếu
như cha muốn chia sẻ định mệnh với tướng công, hãy cho
phép con làm kẻ dẫn đường cho cha về bên kia thế giới."
Chưa dứt lời, anh ta đã tuốt đoản đao tự mổ bụng mình
và chỉ còn là cái xác không hồn.
Em của Saburô 三郎là
Shirô 四郎 nhìn thấy cảnh tượng đó cũng dợm theo gương
anh. Thế nhưng Nyuudô入道, người cha, ngăn anh lại: "Chớ
hấp tấp. Con phải theo thứ tự, cho ta đi trước đã!". Shirô
bèn tra đoản đao vào vỏ và cung kính ngồi trước mặt cha,
chờ ông ra lệnh. Người cha mới bảo con đem một cái ghế
tới rồi tự mình ngồi xếp bằng trên đó theo tư thế của
một thiền sư và bắt đầu mài mực để viết bài thơ tuyệt
mệnh như sau lên trên một mảnh giấy:
Đề trì
xuy mao,
Tài đoạn hư
không.
Đại hỏa tụ
lý,
Nhất đạo thanh
phong.
(Lưỡi kiếm
bén ngót /
Hư vô chém ngọt
/
Trong lửa phừng
phừng /
Một làn gió
mát).
Khi viết xong đâu
đấy, ông cũng làm nghi thức tự quyết như một người vũ
sĩ can đảm mà cuộc sống của ông từng chứng tỏ. Shirô
đã kết thúc gọn ghẽ bằng cách chém đầu hộ cha đúng
theo phong cách của giới samurai. Đến phiên mình, Shirô cũng
dùng chính mũi kiếm ấy để rạch bụng và ngã xuống chết.
Vào thời dòng họ
Hôjô bị tuyệt diệt, có một người samurai khác tên là Nagasaki
Jirô Takashige長崎次郎高重. Anh đã đến gặp một vị thiền
sư, người ấy cũng là kẻ từng hướng dẫn tinh thần của
Takatoki. Anh đặt câu hỏi: "Trong trường hợp này, một vũ
sĩ can trường phải xử sự như thế nào?". Vị thiền sư
đáp ngay: "Vung lưỡi kiếm và tiến về phía trước!" Takashige
hiểu tức khắc ý nghĩa của câu nói. Anh ta đã chiến đấu
với địch một cách dũng cảm cho đến khi kiệt sức và ngã
gục trước mặt chủ mình là Takatoki.
(Theo quyển 10 của
Taiheiki)
Trên đây có lẽ
là tinh thần Thiền tông nơi những người vũ sĩ đã chọn
con đường ấy. Thiền thấy không cần thiết phải tranh luận
với họ về sự bất tử của linh hồn, của chính nghĩa hay
của những hành động thiêng liêng và đạo đức. Thiền thúc
giục họ tiến về phía trước cho dù kết luận họ chọn
là hợp lý hay phi lý. Triết học chỉ dành cho và được giữ
lại ở những tâm hồn trí thức. Thiền muốn hành động
và hành động một cách hữu hiệu nhất. Một khi đã quyết
định điều gì, phải xông ra phía trước và không hề ngoái
đầu. Về phương diện này, Thiền đúng là tôn giáo của
người vũ sĩ.
"Phải chết (shinu)
kiểu isagi-yoku"(潔く死ぬkhiết tử = thác trong) là câu nói
phản ánh một trong những lối suy nghĩ thiết thân của người
Nhật. Có một số cái chết, nếu hàm chứa đặc tính này,
thì dù là tội ác gây ra bởi một can phạm cũng được xem
như có thể tha thứ. "Isagi-yoku" có thể dịch là "không tiếc
gì" (bất hối), "với lương tâm trong sáng", "như một người
can đảm", "không chần chờ", "với đầy đủ sự sáng suốt"
vv...Người Nhật ghét những cái chết nhiêu khê hay chậm chạp;
họ chỉ muốn rơi rụng tan tác như cánh hoa anh đào trước
cơn gió và, không còn ngờ chi nữa, thái độ về cái chết
của họ rất phù hợp với giáo huấn của Thiền tông. Có
thể người Nhật không có một triết lý đặc biệt nào về
cuộc sống (nhân sinh quan) nhưng nhất quyết họ có một triết
lý về cái chết (sinh tử quan), dù đôi khi trong đó cũng thấy
có sự thiếu suy xét. Tinh thần thần đẫm chất Thiền nơi
người vũ sĩ đã lan tỏa ra như một triết lý đến mọi
giai tầng trong đại chúng. Những người này cho dù không được
rèn luyện theo phong cách chiến sĩ cũng đã hấp thụ được
tinh thần ấy và sẵn sàng hy sinh cho một mục đích nào đó
mà họ nghĩ là xứng đáng. Điều đó đã được minh chứng
rất nhiều lần vào những khi đất nước họ lâm vào cảnh
chiến tranh. Một nhà nghiên cứu ngoại quốc về Phật giáo
Nhật Bản [16]
đã nhận xét một cách chí lý rằng Thiền chính là đặc
tính của quốc dân Nhật Bản.
Dịch
xong tại Tokyo ngày 1 tháng 4 năm 2017
NNT
Thư mục
tham khảo:
1) Daisetzu T. Suzuki,
1988, Zen and Japanese culture, Tuttle Publishing, Tokyo, (from p. 61 to
p. 85).
2) Suzuki Daisetsu,
1940, Zen to Nihon Bunka, Iwanami Shoten, ấn bản lần thứ 37 năm
1977. Kitakawa Momo.o dịch từ bản Anh ngữ Zen Buddhism and its
Influence on Japanese culture, Kyôto, 1938.
Chú Thích
[1]
- Còn gọi là Viên Mãn Thường Chiếu Quốc Sư tức cao tăng
Vô Học Tổ Nguyên (Mugaku Sôgen無学祖元), thiền sư Nam Tống,
đã đến Nhật năm 1279.
[2]
- Chùa xếp hàng thứ hai trong Ngũ Sơn của
vùng Kamakura. Hôjô Tokimune cho xây lên năm 1282. Tăng Lâm Tế
là Vô Học Tổ Nguyên khai sơn.
[3]
-
Là tiếng hét để biểu lộ uy lực và sự quyết tâm như
Blitz trong tiếng Đức. Người dùng chữ này lần đầu tiên
là Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一 ? – 788). Thiền
sư Lâm Tế còn chia Katsu ra làm 4 loại với cách sử dụng
khác nhau. Xin được phép giản dị hóa ở đây.
[4]
- Quan niệm Phật giáo cho rằng dầu thuộc
về một phe phái nào, theo một lý tưởng nào, địch cũng
như ta, đã là con người thì đều có Phật tính.
[5]
- Nguyên tác gồm hai quyển, do Kyôzaisha (Tôkyô)
xuất bản năm 1937.
[6]
- Yagyuu Munenori (1571-1646), một lãnh chúa,
trấn thủ vùng Tajima, kiếm khách và nhà binh pháp trứ danh
của thế kỷ 17, cận thần kiêm cố vấn về kiếm thuật
của 3 đời Shôgun họ Tokugawa..
[7]
- Xem thêm bức thư luận về kiếm đạo mà
Thiền sư Takuan đã gửi cho Yagyuu Tajima trong Chương V liên
quan đến Bất Động Trí (Prajnâ Immovable)..
[8]
- Hai cha con trung thần của Nam Triều. Kusunoki
Masashige (楠木正成Nam Mộc, Chính Thành, 1294-1336) được xem
như người samurai tận trung báo quốc số một và là gương
mẫu của mọi thời đại. Masatsura (正行Chính Hành, 1326-1348),
con trai ông, cũng tử tiết như cha và em sau khi thua trận.
[9]
- Một trong những kiếm sĩ nổi tiếng, Tsukahara
Bokuden sinh năm 1490 và chết vào năm 1572.
[10]
- Vùng Kai, lãnh địa của Shingen vây bọc
bởi núi non nên bị thiếu muối trầm trọng vì phải đi thật
xa về phía Thái Bình Dương mới có muối. Tuy là một địch
thủ lợi hại trong việc tranh bá đồ vương nhưng Kenshin không
bắt chước các lãnh chúa khác trong vùng mà phong tỏa kinh
tế Shingen. Ông cho rằng đã là samurai thì phải giải quyết
mâu thuẫn bằng gươm giáo trên chiến trường chứ không được
phép lảm khổ dân nên đã viết thư đề nghị giúp muối
cho vùng Kai và được Shingen vui vẻ hấp nhận.
[11]
- Xem Thiền Luận (Essays on Zen) của S.D., quyển
I, trang 187.
[12]
- Chuyện này cũng giống như câu chuyện giữa
lãnh chúa Date Masamune ở Sendai với Thiền sư Rin.an khi nhà
sư đến dinh để gặp ông. Nói chung, võ tướng thời xưa
hay dùng uy vũ để thử thách đạo lực của các thiền sư
nhưng ngược lại, thường bị họ chinh phục.
[13]
- "Nhập đạo" nôm na là "đi vào con đường"
hay vào Phật đạo, tức là qui y Phật.
[14]
- Việt sơn ý nói vùng núi non Echigo (Việt
Hậu) thuộc tỉnh Niigata ngày nay, đất do Kenshin quản lãnh.
Năng châu là bán đảo Nôtô (Năng Đăng) về hướng Kaga (thành
phố Kanazawa), nơi ông tiến binh để nới rộng thế lực.
Ý nói người viễn chinh là ông đang nhớ quê hương và chắc
đêm nay, chung một vầng trăng sáng, quê hương cũng đang nhớ
kẻ xa nhà.
[15]
- Việc người Nhật yêu hoa anh đào đã đẻ
ra nhiều giai thoại, trong đó có câu chuyện về loài hoa anh
đào mang tên Asatsuma. Đó cũng là tên một nữ tử tù thời
Edo bị giam trên vọng lâu thành Koishikawa. Bà đã xin và được
phép ngắm hoa lần cuối trước khi bị đem ra hành hình.
[16]
- Suzuki Daisetsu muốn nói đến Sir Charles Eliot,
một nhà ngoại giao, từng viết sách về Phật giáo Nhật Bản.
Nhận xét của Eliot cũng được Sir George Samson nhắc lại ở
một nơi khác.
|