Từ truyện
Mori Ôgai (1915) đến phim Mizoguchi Kenji (1954)
Dẫn nhập:
Đây là một tác
phẩm tiêu biểu của Mori Ôgai với bối cảnh lịch thời trung
cổ Nhật Bản. Nhà văn đã lấy cảm hứng từ một câu truyện
kể có tính răn đời (thuyết giáo về luật nhân quả) do
những nhà "kể truyện dạo" (khẩu tụng nghệ nhân) kể lại,
có chép trong tuyển tập về thể loại này nhan đề Sekkyôbushi
Shôhon (Thuyết Kinh Tiết Chính Bản), in ra vào năm Kanbun (Khoan
Văn) thứ 7 (1667). Tuy Sanshô được viết biểu âm một cách
hoa mỹ bằng chữ Hán là Sơn Tiêu hay Sơn Trang nhưng để gọi
Sanjo = Tán Sở, ám chỉ đám cùng dân làm phu phen tạp dịch
và được phép khỏi đóng thuế. Về sau trong số người khốn
khổ như bọn nô lệ đó đã xuất hiện những nghệ nhân
kể truyện rong. Sanshô Dayuu là người kể truyện chính, một
đầu lĩnh trong nghề. Tên Sanshô của nhân vật trong truyện
– người cai quản trang viên trên núi (sơn trang) – lại mượn
từ cái tên của nghệ nhân kể truyện rong ấy. Do đó, nó
đã gieo hoang mang vào đầu óc của độc giả, gây bối rối
cho bao người dịch. Các bản tiếng Anh thường dịch thành
"Sanshô, the Intendant" hay "The Intendant Sanshô". Do đó tựa đề
bằng tiếng Việt của chúng tôi cũng chỉ có thể dịch thoát
như trên. Điều này đến từ lối hành văn đa nghĩa mà người
Nhật có lẽ yêu chuộng hơn bất cứ dân tộc nào hết.
Cần nói thêm là
truyện này đã được đạo diễn Mizoguchi Kenji (1898-1956) phóng
tác và đưa lên màn bạc năm 1954, đoạt ngay Giải Gấu Bạc
ở Đại hội điện ảnh Venise. Thời trẻ khi còn ở Sài Gòn,
vào đầu thập niên 1960, người dịch đã được xem bản
phụ đề Việt ngữ của bộ phim ấy với nhan đề là "Cay
Đắng Mùi Đời". Ngày nay, câu chuyện thương tâm này có thể
xem được miễn phí trên mạng.
Riêng về Mizoguchi
Kenji thì ông được biết là một trong ba đạo diễn cự phách
của Nhật Bản bên cạnh Kurosawa Akira (1910-1998) và Ozu Yasujirô
(1903-1963) nếu không nói là nhà đạo diễn tiên phong và xuất
sắc nhất. Bộ phim Sanshô Dayuu đánh dấu giai đoạn cuối
đời khi Mizoguchi chịu nhiều ảnh hưởng của triết lý Phật
giáo trong sáng tác.
Trên con đường
xứ Echigo
Trên con đường xứ
Echigo qua khỏi vùng Kasuga về hướng Imazu [1],
một toán bộ hành hiếm thấy đang bước đi. Bà mẹ là một
phụ nữ mới ngoài 30 dắt theo hai đứa con nhỏ. Cô chị tuổi
độ 14 còn cậu em 12. Cùng đi với họ có một nữ tỳ chừng
40. Thấy hai cô cậu chủ đã đuối sức, nữ tỳ mới bảo:
"Sắp đến nhà trọ rồi đó!" để khuyến khích họ bước
tiếp.Trong hai người thì cô chị tuy đã phải lê chân mới
tiến được về phía trước, vì cố gắng để mẹ và em
không biết mình đã mệt lả nên đôi khi làm ra vẻ nhanh nhẹn.
Nhìn bề ngoài có thể tưởng họ là một nhóm khách hành
hương đang đi lễ đền gần đâu đây nhưng khi để ý đến
trang phục với đầy đủ nón lá, gậy đi đường như thế,
bất cứ ai cũng phải ngạc nhiên và không khỏi chạnh lòng
thương cảm.
Đoạn đường họ
men theo hết cắt rồi lại nối bởi những ngôi nhà dân, cứ
theo đó họ tiếp tục đi. Tuy lắm cát và sỏi nhưng nhờ
ánh nắng của một ngày thu đẹp trời, con đường đã trở
nên khô ráo, thêm có đất sét lẫn vào nên giờ đây cứng
lại, không làm cho khách bộ hành phải khổ sở như khi cổ
chân họ lún sâu trong cát ở những nơi gần biển. Lúc đó
đoàn người đang đi qua một xóm nhỏ, nơi có những mái tranh
chụm đầu vào nhau và vây quanh bằng một rừng sồi trong
ánh nắng le lói của buổi hoàng hôn.
-Này, chòm lá đỏ
kia có đẹp không nào?
Người mẹ đi đầu,
đưa ngón tay chỉ trỏ và nói với các con.
Hai đứa bé nhìn theo
hướng tay mẹ nhưng không nói một lời nào. Chỉ có người
nữ tỳ cất tiếng: "Lá cây nhuộm đỏ như vậy thì nếu
buổi sáng buổi chiều trời có trở lạnh, mình cũng không
có gì phải ngạc nhiên!". Bỗng dưng cô chị nhìn cậu em rồi
nói:
-Mong sao chóng đến
nơi bố ở, có đúng không em?
-Chị ơi, chưa đâu.
Dễ gì đến ngay được, hở chị!
Cậu em có vẻ hiểu
biết tình hình nên trả lời như vậy.
Mẹ của hai cô cậu
giảng giải:
-Đúng như con nói.
Chúng mình còn phải vượt qua bao nhiêu ngọn núi như chặng
đường vừa qua, phải lấy thuyền vượt qua sông qua biển
mới đến được nơi bố ở. Cho nên mỗi ngày phải cố sức
mà đi, nếu không thì...
Cô chị vẫn khăng
khăng:
-Thế nhưng chúng con
cứ mong cho chóng đến nơi cơ mà!
Và đoàn người lại
tiếp tục dấn bước trong im lặng.
Chợt thấy từ phía
trước có một người đàn bà quảy một cái thùng gỗ không
đi tới. Có lẽ bà này làm nghề múc nước triều làm muối
và vừa từ ngoài bãi biển trở về.
Thấy thế, nữ tỳ
mới cất tiếng gọi:
-Bà ơi bà! Có biết
chỗ nào quanh đây chịu cho trọ qua đêm không?
Người đàn bà làm
muối dừng chân, đưa mắt nhìn bốn thầy trò, rồi mới trả
lời:
-Tôi nghiệp chưa. Đến
nơi đây mà lại gặp lúc trời sắp tối. Rất tiếc là ở
vùng này, không một nhà nào chịu chứa người trọ qua đêm
cả.
Nữ tỳ mới bảo:
-Thực không bà? Cớ
sao người vùng này lại thiếu thân thiện như thế nhỉ?
Hai đứa trẻ thấy
cuộc đối thoại có vẻ đang đến chỗ vướng mắc, mới
đến đứng bên cạnh người đàn bà làm muối. Cùng với
nữ tỳ, cả ba người làm thành một vòng tròn bao quanh bà
ta.
Bà làm muối bèn bảo:
-Không phải như bà
nghĩ đâu. Dân ở đây nhiều người sùng đạo và tốt bụng.
Thế nhưng việc họ không cho khách trọ là đúng với chỉ
thị của quan trấn thủ [2]
và không ai dám trái. Đằng kia có niêm yết đấy.
Bà làm muối vừa nói
vừa chỉ về hướng con đường trước mặt:
-Này, kia kìa, từ đây
cũng nhìn thấy. Đã có bảng yết thị treo ở đầu cầu.
Trong đó họ viết rất rõ ràng. Nói chung là mấy lúc sau này
thường có bọn ác ôn bắt cóc người đem đi bán lảng vảng
quanh vùng. Có những nhà bị buộc tội cho khách bộ hành ở
trọ rồi cầm chân giữ rịt, không cho đi đâu nữa. Trong
vùng phải có đến bảy gia đình dính dấp vào tội đó.
-Thế thì nguy quá!
Chúng tôi có mấy cô cậu nhỏ nên hôm nay khó lòng đi xa hơn.
Bà có cách nào để giúp cho không?
-Ừ nhỉ! Nếu đi theo
con đường tôi thường qua lại để ra đến ngoài ruộng muối
thì khi các người đến nơi, chắc trời đã tối mất. Chỉ
còn cách tìm một chỗ đâu đây để ngủ bờ ngủ bụi. Theo
chỗ tôi nghĩ, nhà mình tá túc dưới chân cầu đằng kia là
tốt nhất. Chỗ đó có một vách đá sát bờ sông, lại thấy
dựng nhiều súc gỗ lớn. Những súc gỗ này từ thượng nguồn
đã theo nước lũ trôi về. Ban ngày, bọn con nít vẫn ra đó
chơi đùa bên dưới nhưng sâu vào trong lại có một chỗ nắng
nôi không dọi tới, tuy hơi tối nhưng nếu trú chân ở khoảng
ấy chắc khỏi lo gió máy. Nó nằm trên con đường mỗi ngày
tôi vẫn đi ngang để đến nhà người chủ ruộng muối trong
khu rừng sồi gần ngay đây thôi. Đến tối, tôi sẽ mang một
ít rơm rạ tới cho.
Người mẹ của hai
đứa trẻ nãy giờ đứng một mình theo dõi câu chuyện nay
tiến lại gần người đàn bà làm muối và bảo:
-Chúng tôi rất mừng
vì gặp được người có lòng tốt như bà. Thôi để chúng
tôi đến đó qua đêm. Bà hãy cho chúng tôi xin ít rơm rạ
nhé! Tất cả chỉ dùng để trải ổ và đắp cho mấy đứa
bé.
Người đàn bà làm
muối nhận lời rồi đi vào trong khu rừng sồi về nhà còn
đoàn bốn người chủ tớ thì vội vã tiến lên phía cây
cầu.
* * *
Đoàn người đã đến
bên thành một cây cầu bắc tạm qua một dòng sông nước
xiết. Đúng như bà làm muối đã chỉ vẽ, nơi đây có một
bảng yết thị cắm trên cọc cao. Đó là chỉ thị của quan
trấn thủ và nội dung không khác gì lời của người đàn
bà khi nãy.
Nếu vùng này có bọn
mẹ mìn lảng vảng, đáng lý ra chính quyền phải tảo thanh
mà bắt chúng mới phải. Không hiểu quan trấn thủ nghĩ thế
nào lại đặt ra điều lệ - tiếng rằng khuyến cáo khách
bộ hành không nên dừng chân – nhưng đã làm cho kẻ lỡ
độ dường phải lâm vào cảnh khốn đốn. Giải pháp như
vậy quả là không đến nơi đến chốn. Thế nhưng vào thời
xưa, đối với mọi người thì luật lệ là luật lệ. Bà
mẹ của bọn trẻ chỉ còn biết than vãn cho số phận hẩm
hiu của mình khi đến một địa phương có cái luật quái
gở như vậy.
Ở đầu cầu có lối
đi dẫn xuống bờ sông cho người ta tắm giặt. Cả đoàn
bèn theo con đường ấy mà xuống dưới bãi. Đúng như vậy,
nơi đó có rất nhiều súc gỗ tựa vào vách đá. Họ bèn
luồn vào bên dưới những súc gỗ ấy. Cậu con trai coi bộ
thích thú, hăng hái chui vào trước tiên.
Khi đã vào sâu bên
trong, họ thấy có một nơi tựa cái hang. Trên mặt đất là
những phiến gỗ lớn được trải ra theo chiều ngang giống
như mặt sàn.
Cậu con trai đi đằng
trước, leo lên cái mặt sàn kết bằng gỗ ấy rồi đi vào
một góc bên trong và gọi ra:
-Chị ơi. Nhanh nhanh
vào mà xem!
Cô chị thận trọng
bước đến cạnh đứa em trai.
Nữ tỳ vừa trút cái
bọc hành lý nặng khỏi đôi vai vừa bảo với họ:
-Ôi dào! Hai cô cậu
đợi tôi một chút nào.
Thế rồi bà lấy ra
từ trong đó một số quần áo để thay, bảo họ trải xuống
mặt sàn trong hốc làm chỗ ngồi cho mấy mẹ con.
Bà mẹ vừa đặt người
xuống thì hai cô cậu đã bám lấy hai bên. Từ khi rời ngôi
nhà của họ ở quận Shinobu trong xứ Iwashiro [3]
cho đến lúc này, ba mẹ con nhiều khi đã phải ngủ lại ở
các nơi mang tiếng là nhà cửa nhưng còn tệ hơn cả chỗ
trú chân dưới bóng những súc gỗ này. Vì vậy, họ đã quen
với sự thiếu tiện nghi và không cảm thấy khổ sở cho lắm.
Chỗ trú
qua đêm dưới chân cầu
Người nữ tỳ không
chỉ kéo ra từ cái túi vải một mớ quần áo thôi đâu. Còn
có cả lương khô dành cho cuộc hành trình. Bà đặt tất cả
trước mặt ba mẹ con và nói:
-Nơi đây không thể
nhóm được lửa vì thấy lửa, kẻ gian có thể khám phá ra
mình. Hay cô cho phép con đi đến nhà ông chủ ruộng muối
kia xin nước nóng. Nhân đó con cũng sẽ nhờ họ kiếm cho
một ít rơm rạ.
Nói xong, nữ tỳ lúi
húi bước ra khỏi đó. Mấy đứa trẻ bắt đầu bày ít bánh
cốm (okoshigome) [4]
và trái cây khô ra ăn một cách ngon lành.
Khoảng một đổi sau
thì có tiếng chân người đi vào chỗ họ trú dưới mấy
súc gỗ. Bà mẹ cất tiếng hỏi "Vú Take đấy hở?" thế nhưng
trong lòng có hơi nghi ngại bởi vì nếu nữ tỳ đi mãi vào
tận khu rừng sồi thì sao lại về chóng thế. "Vú Take" là
tên bà dùng để gọi người nữ tỳ.
Kẻ bước vào là một
gã đàn ông chỉ độ bốn mươi. Gân cốt hắn ta cứng cáp,
bắp thịt nổi lên cuồn cuộn như có thể đếm được từng
cái một. Thân hình săn chắc, khuôn mặt rắn rỏi (như mặt
một hình nhân tạc lên ngà) với một nụ cười đầy đặn,
tay lại mang xâu chuỗi hạt. Cách đi đứng của hắn giống
như người đã quen thuộc với nơi chốn, xem nó như nhà mình.
Hắn tiến sát đến chỗ mấy mẹ con đang trú ẩn rồi đặt
mông ngồi xuống một góc sàn củi bên cạnh họ.
Ba mẹ con chỉ biết
sửng sốt nhìn. Tuy vậy, họ thấy hắn không có vẻ muốn
hãm hại mình nên không khiếp sợ cho lắm.
Gã đàn ông nói như
thế này:
-Tôi là người chủ
thuyền tên là Yamaoka Dayuu [5].
Nhân vì độ rày quanh vùng có bọn mẹ mìn lai vãng nên quan
địa phương đã ra lệnh cấm dân chúng cho khách đi đường
ngủ trọ. Thế nhưng coi bộ quan trên không đủ sức bắt
được bọn mẹ mìn mà chỉ làm khổ thân khách bộ hành.
Vì thế tôi mới nẩy ra cái ý muốn làm phước. May mắn là
tôi có một ngôi nhà khá xa đường cái nên có thể chứa
chấp những người lỡ độ đường - bất luận là ai - một
cách kín đáo. Chính vậy mà tôi thường hay đi lòng vòng trong
rừng hoặc dưới chân cầu xem có ai phải ngủ bờ ngủ bụi
hay không. Cho đến nay tôi đã giúp đỡ, đem về nhà rất
nhiều người gặp phải hoàn cảnh đó. Tôi thấy mấy cháu
đây đang ăn bánh kẹo nhưng mấy thức này dễ hư răng mà
làm sao có thể no lòng. Nhà tôi thì không có gì thịnh soạn
để tiếp đãi nhưng cỡ cháo khoai [6]
thì cũng có đấy. Vậy bà đây và các cháu đừng có ngại
ngùng gì mà không về đằng tôi.
Gã đàn ông không tỏ
ra bức bách gì cả mà chỉ mời mọc nhẹ nhàng như một người
đang thủ thỉ.
Bà mẹ mấy đứa trẻ
chăm chỉ nghe anh ta nói và không khỏi cảm động khi thấy
có kẻ dám bất chấp luật lệ nhà nước để giúp người.
Lúc đó bà mới bảo:
-Tôi không biết nói
gì để cảm tạ tấm lòng quí hóa của ông. Thế nhưng việc
không chấp hành lệnh quan trên cấm cho khách lạ ngủ trọ
như thế sẽ gây ra sự rắc rối cho gia chủ và đó là điều
làm tôi không yên tâm. Dù sao, nếu ông giúp cho mấy đứa
bé có bát cháo nóng và mái nhà ấm áp để nghỉ ngơi thì
ơn ấy dù đến kiếp sau tôi vẫn xin ghi nhớ!
Gã đàn ông tự xưng
là Yamaoka Dayuu gật gù:
-Chao ôi! Bà đây đúng
là người hiểu biết. Nếu thế thì tôi xin dẫn đường cho
nhà mình đi ngay.
Nói xong, hắn dợm
đứng dậy.
Người mẹ lại nói
với giọng buồn thảm:
-Xin ông hãy chờ cho
một chút. Thấy ông muốn ra tay cứu giúp ba mẹ con, chúng
tôi rất đội ơn nhưng không biết nói ra điều sau đây thì
có làm phật ý ông không. Số là tôi còn có thêm một người
đi cùng nữa.
Yamaoka Dayuu vểnh tai
nghe rồi hỏi lại:
- Bà có người tùy
tùng à? Thế người ấy là đàn ông hay đàn bà vậy?
- Đó là người đầy
tớ gái tôi mang theo để chăm sóc các cháu. Hiện nó đang
đi xin nước nóng ở một chỗ từ phía đường cái đi ngược
lên chừng ba hay bốn chô [7]
thôi. Chắc sắp về đến nơi!
Yamaoka vẫn giữ vẻ
bình thản:
-Tớ gái à? Thế thì
bọn mình chờ thôi.
Nhưng không hiểu vì
sao, đằng sau khuôn mặt khó bề dò xét của hắn đã thấy
ánh lên một tia mừng rỡ.
* * *
Chốn này có tên là
bãi biển Naoe no Ura. Mặt trời lúc đó hãy còn nấp sau rặng
núi Yoneyama. Trên mặt biển chỉ có một giải sương lam bàng
bạc giăng mắc.
Đám hành khách đã
được đưa lên thuyền. Người lái thuyền đang tháo giây
neo. Người lái chính là Yamaoka Dayuu, còn đám hành khách không
ai khác là bốn thầy trò lỡ độ đường đêm qua đã ngủ
trọ nhà ông ta.
Bà mẹ và hai đứa
trẻ sau khi gặp chủ thuyền Yamaoka ở dưới chân cái cầu
đặt tạm đã chờ cho đến khi người tớ gái là bà Vú Take
vác cái bình không đi xin nước nóng trở về rồi tất cả
đi theo ông lái đến nhà ngủ trọ. Dù đi theo mọi người
mà sự lo âu vẫn hiện ra trên nét mặt của Vú Take. Yamaoka
đưa cả bốn vào trong một căn nhà lá nằm giữa rừng tùng
ở phía nam con đường cái và mời họ cháo khoai. Thế xong
hắn ta hỏi thăm để xem họ định đi về hướng nào. Sau
khi cho hai đứa trẻ đi ngủ, dưới ánh đèn leo lét, người
mẹ mới trình bày đại khái cho chủ nhà tình cảnh của mấy
mẹ con.
Bà cho biết quê quán
của mình là vùng Iwashiro. Bởi vì người chồng đi xuống
vùng Tsukushi [8]
mãi chưa thấy về nên bà phải dắt hai đứa con đi tìm. Bà
cho biết Vú Take là người tớ gái đã đến chăm sóc con bà
từ hồi cô chị vừa mới ra đời. Nhân vì không biết trông
cậy vào ai nên trong chuyến đi xa khó khăn khôn lường này,
bà phải đem vú ấy theo cho có bạn.
Tuy đến được nơi
đây nhưng còn đường về Tsukushi hãy còn xa tít, có thể
nói như cả bọn chỉ vừa mới bước chân ra khỏi nhà. Từ
đây không hiểu mình sẽ phải lấy đường bộ hay đường
thủy nữa. Nghĩ rằng chủ thuyền là người đã đi đấy
đi đó và biết nhiều về những vùng đất lạ, có thể chỉ
bảo cho mình nên bà mẹ của hai đứa trẻ mới đem điều
đó hỏi thăm ông ta.
Yamaoka Dayuu có thái
độ của kẻ được hỏi về một chuyện mà mình đã nằm
lòng, không chút chần chờ khi trả lời rằng bà nên chọn
đường thủy. Hắn bảo nếu đi đường bộ thì khi mới vào
xứ Etchuu bên cạnh đã phải gặp ngay nhiều chỗ hiểm trở
"cha con mạnh ai nấy đi" [9],
dưới chân mấy ghềnh đá như dựng dứng, có những ngọn
sóng thô bạo không ngừng bủa vào bờ. Khách đi đường phải
tạm trụ trong hốc núi chờ cho đến khi sóng kéo ra xa mới
tìm cách chạy cho nhanh qua những đoạn đường cực hẹp nằm
dưới chân ghềnh. Lúc đó không cha mẹ nào dám ngoảnh lại
đằng sau để trông chừng con mình mà con cái cũng không thể
giúp cho cha mẹ. Những chỗ bên bờ biển gọi là "nan sở"
đó vốn có địa hình như thế. Còn như khi đi đường núi,
khách lại có cơ gặp những đoạn đường nguy hiểm mà chỉ
cần đạp phải một tảng đá mà gốc đã lung lay là có thể
rơi xuống vực sâu muôn trượng. Trên đường về các tỉnh
miền Tây (Saikoku) [10]
những đoạn đường khó khăn như thế nhiều vô kể.
Ngược lại, nếu dùng
thuyền thì sẽ an toàn. Gặp được người chèo thuyền có
tay nghề vững vàng, khách chỉ cần ngồi yên một chỗ là
có thể xê dịch được hàng trăm, hàng ngàn dặm. Còn như
chủ thuyền là hắn thì tuy không thể đi đến tận các tỉnh
miền Tây nhưng vốn quen biết với các tay lái ở các vùng
khác. Cứ lên thuyền hắn mà đi, đến chỗ nào đó sẽ được
chuyển qua thuyền bạn đi tiếp thì nhất định sẽ xuống
được các tỉnh miền Tây. Sáng mai này mình lên đường ngay
thôi, gã Yamaoka nói với giọng tưng tửng như xem mọi chuyện
đã quyết định xong.
Trời vừa tang tảng
sáng, Yamaoka Dayuu đã dựng bốn người dậy và hối thúc họ
ra khỏi nhà. Khi ấy, bà mẹ mấy đứa trẻ mới mở tay nãi
ra lấy tiền để trả phí nhà trọ. Yamaoka bèn chận lại,
cho biết hắn không lấy tiền phòng nhưng bảo nguyên cái tay
nãi quan trọng kia thì hãy đưa hắn giữ hộ cho khỏi mất
và còn căn dặn rằng bất cứ những món đồ quí giá, khi
đến nhà trọ nên gửi chủ nhà trọ, còn khi đi thuyền đò
thì phải gửi cho chủ thuyền để họ giữ giùm.
Thấy anh ta là người
đầu tiên đã có lòng tốt cho mình ngủ nhờ, bà mẹ mấy
đứa trẻ cảm thấy mình bị mắc trong thế kẹt của một
kẻ chịu ơn. Có điều là tuy anh ta đã bất chấp luật lệ
nhà nước để cưu mang mẹ con bà nhưng bà không tin tưởng
đến độ nghe anh ta nói sao cứ phải theo vậy. Tuy nhiên, Yamaoka
đã lợi dụng thế kẹt ấy, hắn dùng lời lẽ để khéo
léo để ép uổng khiến cho bà mẹ khó lòng chống đỡ. Việc
thiếu tinh thần đề kháng của bà có lẽ phát xuất từ một
nỗi sợ hãi nào đó. Cá nhân bà không nghĩ rằng mình sợ
gì người lái thuyền này nhưng trong lòng, bà cũng chẳng lấy
điều đó làm chắc.
Trước tình huống
như vậy, bà mẹ không biết làm gì khác hơn là đành bước
chân xuống thuyền. Bọn trẻ con ngắm nhìn mặt biển lặng
sóng đang trải dài như tấm thảm xanh lơ, bước xuống thuyền
mà lòng nôn nao trước một cảnh vật lạ mắt. Duy khuôn mặt
của bà vú Take thì kể từ đêm hôm qua ở dưới chân cầu
cho đến giờ đây khi đặt chân lên mạn thuyền, vẫn không
hề thay đổi nghĩa là luôn luôn biểu lộ một tâm trạng
lo âu.
Yamaoka Dayuu tháo dây
neo, nhấn mạnh tay sào đưa thuyền rời bến. Chiếc thuyền
chòng chành một chút rồi dần dần trôi xa bờ.
***
Yamaoka đưa thuyền
men theo bờ đi về hướng Nam. Hắn nhắm biên giới của vùng
Etchuu mà chèo tới. Chẳng mấy lúc sương mù tan đi và ánh
mặt trời chiếu rờ rỡ trên mặt sóng.
Dưới bóng những ghềnh
đá hoang vu không thấy một túp nhà dân, có một nơi sóng
đang liếm như muốn rửa sạch bãi cát và đánh tấp vào đấy
những mảng rong biển màu xanh (miru) hay nâu (arame) [11].
Hai chiếc thuyền đã nằm đó đợi sẵn. Khi thấy Yamaoka,
mấy tay lái bèn cất tiếng gọi hắn.
-Sao mầy? Có không
đấy?
Yamaoka đưa bàn tay
phải lên và gập ngón tay cái vào. Thế rồi, hắn lái thuyền
về hướng đó. Gập ngón tay cái là dấu hiệu cho biết có
bốn người.
Trong bọn chèo thuyền
đằng trước mặt có một gã tên Miyazaki no Saburô vì hắn
người vùng Miyazaki trong xứ Etchuu. Hắn mở nắm tay trái để
ra dấu. Tay phải là dấu hiệu về hàng hóa, còn tay trái là
dấu hiệu về giá tiền. Hắn muốn định giá 5 quan tiền
cho món hàng.
Bây giờ đến lượt
một tên lái khác lên tiếng: " Cố thêm một chút nữa đây
này!" Hắn đột nhiên duỗi mạnh khuỷu tay trái rồi xòe rộng
lòng bàn tay, sau đó chỉa ngón tay trỏ lên. Gã đàn ông này
tên Jirô người đảo Sado [12].
Hắn muốn trả những 6 quan.
Miyazaki la toáng lên:
-Đồ chọc gậy bánh
xe!
-Mày mới là dân ăn
hớt.
Sado cũng chuẩn bị
tư thế đối phó. Hai chiếc thuyền chao nghiêng, lườn đập
vào mặt nước.
Yamaoka Dayuu lạnh lùng
nhìn cuộc tranh chấp như muốn so sánh hơn thiệt:
-Thôi bay, đừng giở
võ ra. Tao không bắt đứa nào trong bọn bay phải ra về tay
không đâu! Để chẳng có vị khách nào phải gặp cảnh khốn
đốn, tao đề nghị gửi mỗi đứa hai người. Chuyện tiền
nong thì sẽ tính sau và chia theo giá cả.
Nói xong, Yamaoka quay
lại nhìn bốn người khách trong khoang và bảo:
-Này, từng hai người
một qua hai chiếc thuyền bên kia đi. Cả hai đều là thuyền
chở khách xuống miền Tây đấy! Nếu tất cả cùng lên chung
một chiếc, e nặng quá, thuyền bơi không xuể đâu.
Yamaoka nắm tay chuyển
họ sang thuyền khác. Hai đứa trẻ lên thuyền của Miyazaki
còn bà mẹ và Vú Take thì lên thuyền của Sado. Trong lúc kéo
tay Yamaoka để chuyển giao người như thế thì cả Miyazaki
lẫn Sado đều đã dúi vào tay hắn mấy xâu tiền.
Giữa khi Vú Take giật
giật tay áo chủ để hỏi: "Còn cái tay nãi nhà mình gửi
cho họ thì sao hở cô?" thì Yamaoka đã nhanh nhẹn đẩy mái
chèo đưa con thuyền trống không ra xa.
-Tôi xin kiếu từ quí
vị ở đây. Phận sự chuyển giao của tôi như thế là đã
xong xuôi rồi đấy nhé. Chúc tất cả lên đường mạnh giỏi.
Tiếng mái chèo khua
nhanh vọng tới bên họ và chẳng mấy chốc, không còn thấy
bóng con thuyền của Yamaoka đâu nữa.
Bà mẹ mới nói với
Sado:
-Nhớ chèo theo cùng
một đường và đưa chúng tôi đến cùng một bến cho nhé!
Sado và Miyazaki đưa
mắt nhìn nhau làm hiệu rồi cả hai cất tiếng cười vang.
Xong, Sado mới bảo:
-Thuyền đưa người
là thuyền "hoằng thệ" còn chỗ đến đều là "bỉ ngạn".
Ông hòa thượng trên Liên Hoa Phong Tự từng dạy tôi như thế
đấy. [13]
Sau đó, hai phu trạo
không nói gì thêm nữa và đẩy thuyền ra. Sado no Jirô thì
chèo lên phía Bắc, còn Miyazaki no Saburô chèo về hướng Nam.
"Ôi chao, ôi chao!" Bốn mẹ con chủ tớ la lên bai bải nhưng
tiếng kêu của họ càng lúc càng tách xa thôi.
Bà mẹ tiếc thương
như một kẻ mất hồn, choài tay khỏi mạn thuyền và đưa
lên:
-Thôi biết làm sao
đây. Mẹ con mình đành phải chia ly. Anju ơi, nhớ gìn giữ
cẩn thận bức tượng Phật Địa Tạng để ngài phù hộ
cho nhé. Còn Zushiô, con phải luôn luôn mang theo trên mình thanh
đoản đao, kỷ vật của cha con. Và hai con bao giờ cũng phải
ở cạnh nhau, các con nhé!
Anju là cô chị, còn
Zushiô là tên của cậu em.
Hai đứa trẻ chỉ
biết gào lên: "Mẹ ơi! Mẹ ơi" mà thôi.
Cảnh biệt
ly xé lòng trên bến nước
Hai chiếc thuyền từ
từ tách ra hai ngả. Đằng sau lưng người mẹ, chỉ còn hình
ảnh hai đứa trẻ mồm há hốc như đôi chim non chờ mẹ mớm
mồi chứ không ai nghe thêm được một tiếng nào nữa.
Vú Take gọi Sado no
Jirô:
-Này bác lái, bác lái
ơi!
Thấy hắn ta vẫn không
thèm ngó ngàng, người nữ tỳ mới nắm lấy bàn chân chắc
nịch như một thân tùng đỏ của hắn:
-Này bác lái! Thế
này là thế nào? Mấy bác bắt chúng tôi phải xa nhau và đưa
cô cậu nhà tôi đi đâu vậy? Cô chủ của tôi cũng thế.
Từ rày biết phải nương cậy vào ai để sống đây? Xin bác
hãy chèo rượt theo chiếc thuyền ấy cho tôi. Bác để phúc
đức lại cho con cháu chứ!.
-Câm mồm đi mụ!
Sado lấy chân đá ngược
một cái làm Vú Take ngã sóng soài giữa khoang, mái tóc rối
tung ngáng vào mạn thuyền.
Vú Take lồm chồm ngồi
dậy:
-Thôi, đến nước
này thì...Cô ơi, tha lỗi cho con.
Không ngờ vừa nói
dứt lời, vú đã nhảy ùm xuống biển.
-Ối chà!
Gã lái thuyền hét
lên và đưa cánh tay ra hòng chụp lại nhưng không còn kịp
nữa.
Bà mẹ tháo đôi hài,
đến trước mặt Sado, nói với hắn:
-Vật này không đáng
giá bao nhiêu nhưng là món lễ vật để cảm ơn ông đã giúp
đỡ chúng tôi. Còn giờ thì tôi cũng xin kiếu ông luôn.
Nói xong bà đưa tay
đặt lên mạn thuyền.
-Giỡn mặt sao chớ!
Sado nắm lấy tóc và
giật bà ngã oạch.
-Ai cho phép mày chết.
Dại gì tao để mất đi một mặt hàng có giá.
Sado no Jirô lấy sợi
dây dùng để kéo lưới quấn chặt mấy vòng quanh thân hình
bà mẹ. Bà bị trói ngã lăn ra một đống. Con thuyền cứ
thế mà chèo mãi, chèo mãi về hướng Bắc.
* * *
-Mẹ ơi, mẹ ơi!
Hai chị em cứ nức
nở như thế. Con thuyền của Miyazaki no Saburô chở họ vẫn
men theo bờ để đi về phía Nam.
Miyazaki mắng mấy đứa
trẻ:
-Thôi đừng gọi mẹ
chúng mày nữa. Tôm cá dưới nước nó nghe chứ mụ ấy còn
nghe gì đâu. Bọn đàn bà có lẽ giờ đây đã được chở
ra Awa no shima, nơi còn xa hơn cả đảo Sado.
Cô chị Anju và cậu
em Zushiô ôm nhau mà khóc. Kể từ ngày rời quê hương và trong
suốt cuộc hành trình, lúc nào mẹ chúng cũng ở bên cạnh.
Chúng cứ ngỡ sẽ tiếp tục được như thế nhưng nào ngờ
giờ đây phải chịu cảnh chia ly. Hai đứa không biết phải
làm sao. Chỉ còn cách vùi nén nỗi buồn thương xuống tận
đáy lòng nhưng chúng chưa hình dung ra cuộc chia ly này sẽ
thay đổi thân phận của hai chị em đến mức độ nào.
Giữa trưa, Miyazaki
đem bánh bột nếp (mochi) ra ăn. Hắn cũng phát cho Anju và Zushiô
mỗi đứa một chiếc. Hai đứa trẻ cầm miếng bánh trên
tay nhưng không lòng dạ nào nuốt nổi. Hai cặp mắt lại nhìn
nhau và khóc. Đến đêm, nằm dưới tấm chiếu lác, Miyazaki
phát cho, chúng vẫn khóc thút thít cho đến lúc lăn ra ngủ
mê man.
Cứ như thế, hai đứa
đã trải qua mấy ngày trời trên thuyền.Lý do là Miyazaki phải
đi lòng vòng. Hắn ghé nhiều bến ở các vùng Etchuu, Noto,
Echizen và Wakasa để rao bán bọn trẻ.
Tuy vậy, nhân vì chúng
hãy còn quá trẻ và hình thù trông ốm yếu, không ai chịu
bỏ tiền mua. Cho dù đôi khi cũng có người đến hỏi nhưng
vì bất đồng về giá cả nên việc không thành. Miyazaki bắt
đầu trở nên bực dọc, quay ra đánh đập bọn trẻ và quát
tháo:" Chúng mầy lúc nào cũng chỉ biết khóc!".
Thuyền Miyazaki đi vòng
vo mãi, một ngày cập bến Yura trong xứ Tango. Ở địa danh
gọi là Ishiura, có một trang viên rất lớn. Ngoài cánh đồng,
chủ nhân trồng lúa gạo và lúa mì, trên núi làm nơi đi săn,
ngoài biển lại cho đánh cá. Đó còn là nơi nuôi tằm dệt
vải, chế tạo các loại đồ gốm, đồ kim loại hay đồ
gỗ ... không thiếu một thứ gì. Tay phú hào chủ nhân khu
vực ấy tên là Sanshô Dayuu biết sử dụng những tay thợ
khéo mọi ngành nghề và nếu là nhân lực thì bao nhiêu ông
ta cũng thu mua tất. Cho đến thời điểm này, khi nào không
có khách chịu mua, Miyazaki vẫn thường đem hàng họ của mình
đến bán cho Sanshô Dayuu.
Người đại diện
cho Sanshô ra ngoài bến để mua nô lệ (gọi là yakkogashira)
đã bỏ ra ngay 7 quan tiền để mua chị em Anju và Zushiô về.
-Khỏe ghê! Tống khứ
được hai con quỷ nhỏ, mình cảm thấy nhẹ cả người!
Vừa nói, Miyazaki no
Saburô vừa cất món tiền vừa nhận được vào trong ngực
áo. Thế rồi hắn đi thẳng đến một quán rượu nằm ngay
trên cầu tàu.
* * *
Trong ngôi dinh thự rộng
lớn với những hàng cột mỗi cái phải to hơn cả ôm, có
một gian đại sảnh nằm sâu vào bên trong. Một lò sưởi
lớn, vuông vức và đốt bằng than đã được nhóm lên. Phía
bên kia lò có trải một chỗ nằm bằng ba tấm đệm chồng
lên nhau. Trên đó lão Sanshô Dayuu – người quản lãnh trang
viên này - đang chống tay tựa cằm. Hai cậu công tử Jirô
(Thứ lang) và Saburô (Tam lang) đứng hầu hai bên tả hữu như
hai con chó ngao (kỳ lân trên đền chùa). Nguyên lai Sanshô Dayuu
có ba người con trai. Người anh cả tức Tarô, năm mới 16
tuổi, đã chứng kiến cảnh tượng cha mình tự tay đóng con
dấu sắt nung đỏ (yakiin)vào mặt một nô lệ (yakko) toan đào
tẩu nhưng bị bắt lại. Cậu ta lúc đó chỉ nhìn trân trân
hành động của người cha, không thốt lên một lời, nhưng
sau đó, cậu đã bỏ nhà ra đi và không còn ai biết tung tích
nữa. Mười chín năm trời đã trôi qua kể từ ngày ấy.
Sanshô Dayuu,
lão chủ nô
Viên chức phụ trách
cai quản nô lệ dắt Anju và Zushiô tới trước mặt chủ.
Thế rồi hắn ra lệnh cho hai đứa trẻ cúi chào.
Hình như hai đứa không
hiểu lời người cai quản nói nên chỉ đưa mắt thao láo
nhìn khuôn mặt của Sanshô. Năm nay Sanshô đã sáu mươi tuổi.
Gương mặt lão ta đỏ như sơn son với một vầng trán rộng
và cái cằm bạnh, râu tóc đều ánh lên như bạc. Hai đứa
trẻ không tỏ ra sợ hãi cho lắm, chúng chỉ cảm thấy ngạc
nhiên nên cứ nhìn chầm chập vào mặt chủ nhân.
Sanshô mới bảo:
-Con nít bọn bay mua
được chỉ có chừng đó thôi à? Khác với những đứa mua
về trước đây, cái ngữ này không biết sẽ dùng được
vào việc gì đây!
Dứt lời, lão bèn
ra lệnh đem hai đứa trẻ đến gần để xem xét. Thấy chúng
quá xanh xao, gầy gò nên lão mới nói: "Đến ta mà cũng không
biết sẽ dùng hai đứa này vào việc gì!"
Cậu ba Saburô đang
đứng bên cạnh bèn góp lời. Tuy cậu ta là con trai út những
tuổi đã ba mươi:
-Không đâu bố ạ.
Nãy giờ con để ý thì thấy khi bảo chúng lạy chào, chúng
vẫn chưa biết nghi lễ là gì. Khác với bọn con nít khác,
chúng lại không biết xưng tên họ. Tuy có vẻ ốm yếu nhưng
gan lì, chịu đựng giỏi lắm đấy. Về vụ cắt đặt công
việc ban đầu thì mình có thể sai thằng con trai kiếm củi,
bắt đứa con gái quẩy nước muối là đủ.
Người quản lý nô
lệ lên tiếng:
-Đúng như lời cậu
ba dạy, đối với con, bọn nó cũng không chịu xưng tên.
Lão Sanshô cười ngạo
nghễ:
-Chúng có vẻ đần
độn thật đấy. Thôi để ta đặt tên cho nhé. Này, gọi
con chị là Shinobugusa, còn thằng em là Wasuregusa. Shinobugusa
mỗi ngày ba bận phải ra ngoài biển quẩy nước mặn, còn
thằng Wasuregusa thì mỗi ngày vào núi và phải đem về cho
được ba gánh củi. Vì thân thể ốm yếu nên mỗi gánh có
vơi đi nữa, ta cũng tha cho..
Cậu ba Saburô lại
nói:
-Cụ nhân từ đến
thế là hết mức rồi. Này, quản lý, mau đưa chúng ra và
cấp cho dụng cụ làm việc đi thôi.
Người quản lý đưa
hai đứa trẻ đến căn nhà dành cho bọn nô lệ vừa mới
mua về. Anju được cấp cho thùng gỗ và gáo gỗ để múc
nước, còn Zushiô thì được trao cho giỏ đựng củi và liềm.
Đứa nào cũng được cấp cho một cái hộp để đựng cơm
mang theo ăn trưa. Bọn nô lệ mới đến ở trong một ngôi
nhà biệt lập với nơi cư trú của lũ nô tỳ khác.
Khi người quản lý
nô lệ xong việc bước ra thì chung quanh đó, trời đã nhá
nhem tối. Thế nhưng ngôi nhà của đám nô lệ không có lấy
một ánh đèn.
* * *
Sáng hôm sau trời hết
sức lạnh. Tấm chăn phát cho tối hôm qua lại quá bẩn, Zushiô
phải đi kiếm mấy manh chiếu lác thường dùng để che mui
thuyền rồi hai chị em phủ nó lên người mà ngủ.
Đúng như lời người
quản lý căn dặn tối qua, Zushiô xách cái hộp xuống nhà
bếp lãnh phần ăn sáng. Lúc ấy, trên mái nhà lợp tranh lấm
đầy bùn đất, sương đang rơi. Bếp là một gian phòng rộng
nền đất, trong đó, đông đảo đám nô tỳ đã chực sẵn.
Nam và nữ nhận thức ăn ở hai chỗ khác nhau nhưng nhân vì
Zushiô muốn lấy cả phần cho chị và cho mình nên lúc đầu
cậu có bị họ mắng. Khi hứa là ngày hôm sau, chi cậu sẽ
đến tự lấy phần ăn, cậu mới được cho phép lấy hai
phần gồm có cháo đặc (katakayu) và nước nóng (oyu) đựng
trong những vật dụng bằng gỗ.
Hai chị em vừa ăn
sáng vừa bàn bạc với nhau. Chúng nghĩ rằng chuyện bất hạnh
xảy ra như thế này là do số phận an bài nhưng thay vì chịu
khuất phục, cả hai cần phải giữ được lòng can đảm.
Thế rồi chị thì ra mé biển, em trai lên đường vào trong
núi. Mỗi sáng hai đứa cùng đội sương đi qua khỏi ba lớp
cửa gỗ của khu trang viên của Sanshô Dayuu, hết lớp thứ
ba, thứ hai rồi đến thứ nhất, sau đó mới chia tay, kẻ
rẽ bên trái, người rẽ bên mặt nhưng vẫn thường quay lại
nhìn theo dõi bóng nhau.
Zushiô mỗi ngày leo
lên lưng núi Yura-ga-take, cách bến Ishiura khoảng một thôi
đường dốc về hướng Nam. Chỗ cậu chặt củi không xa chân
núi là bao. Đi qua khỏi vùng có mấy tảng đá lỗ chỗ vệt
tím là đến một vạt đất khá rộng và bằng phẳng. Nơi
đó loại cây tạp nhạp mọc rất nhiều.
Zushiô đứng giữa
rừng cây gỗ tạp đưa mắt nhìn quanh. Thế nhưng cậu chưa
bắt tay vào việc vì vẫn không biết cách đốn củi như thế
nào. Lúc ấy mặt trời buổi sáng đã làm tan loãng màn sương.
Cậu ngồi trên đống lá rụng dày như lớp đệm và suy nghĩ
bâng quơ. Thời gian cứ thế trôi qua, mãi một lúc sau cậu
mới định thần lại được. Tuy vậy, vừa chặt được hai
ba cành cây thì ngón tay cậu đã bị thương. Zushiô lại ngồi
bệt xuống lớp lá rụng. Cậu nghĩ trong rừng mà lạnh lẽo
thế này, huống chi chị mình ở trên bãi biển phải chịu
thêm những ngọn gió triều thì còn lạnh biết bao nhiêu. Nghĩ
đến đó, nước mắt cậu rơi lả chả.
Khi mặt trời đã lên
khá cao và cũng đã chất đầy được một gánh củi, cậu
mới đeo trên vai xuống núi mà về. Trên đường, cậu gặp
một người đốn củi khác cất tiếng hỏi thăm:
-Em cũng là người
giúp việc (yakko) chỗ cụ Sanshô đấy ư? Mỗi ngày phải vác
bao nhiêu bó củi về trình hả?".
-Dạ, mỗi ngày phải
đem về ba gánh nhưng cháu hãy còn chưa quen việc.
Zushiô cứ đúng như
thế mà thành thực trả lời.
-Nếu mỗi ngày bắt
phải ba gánh thì đến trưa xong được hai gánh là đã ổn.
Đốn củi thì phải đốn như thế này này!
Ông tiều hạ gánh
của mình xuống và trong một thoáng đã đốn giúp cậu ngay
một gánh đầy.
Tinh thần Zushiô lúc
ấy mới phấn chấn trở lại. Đến giữa trưa cậu đã xong
gánh thứ hai. Từ buổi trưa trở đi, cậu thêm được gánh
thứ ba.
Cô chị Anju của cậu
phải men theo dòng sông đi về hướng Bắc mới ra được bãi
biển. Sau khi xuống đến chỗ múc nước triều, cô vẫn đứng
tần ngần vì không biết cách múc ra sao. Cô nghĩ trong bụng
là phải cố gắng mà thôi nên mới lấy cái gáo gỗ ra và
giữa khi chưa biết phải làm thế nào thì sóng biển đã xô
tới cuốn nó đi.
Một cô gái đang múc
bên cạnh đã nhanh tay chụp lại cái gáo và trả về cho cho.
Cô ấy mới bảo Anju thế này:
-Múc nước triều không
ai múc như em đâu. Để chị chỉ cho cách múc nhá. Nắm gáo
bằng tay phải và thùng bằng tay trái. Múc xong một gáo thì
phải đổ ngay vào thùng.
Cô gái múc nước bên
cạnh có vẻ mến Anju vì sự ngây thơ của đứa trẻ. Hai
người bèn lấy cơm trưa ra ăn, kể cho nhau nghe hoàn cảnh
của mình và kết nghĩa chị em. Cô gái còn cho biết mình tên
là Kohagi người vùng Ise, được người ta mua về từ bến
Futami-ga- ura.
Mới ngày đầu tiên
mà nhờ có đàn chị chỉ vẻ cách thức, Anju đã múc được
ba thùng nước mặn đem về. Cậu em trai của cô cũng có người
chỉ dẫn nên đã xong phận sự ba gánh củi. Cậu đem từng
gánh một về nộp và đến chiều thì mọi việc đều xong.
* * *
Chị múc nước, em đốn
củi, cuộc sống ngày ngày cứ thế trôi qua. Cô chị ra bãi
biển thì nhớ em, cậu em lên núi thì nhớ chị, cùng đợi
khi chiều xuống để trở về ngôi nhà nhỏ. Mỗi lần cầm
lấy tay nhau và nhắc đến người cha đang ở dưới Tsukushi,
người mẹ ngoài đảo Sado thì chúng chạnh lòng thương cảm,
nước mắt lại chan hòa.
Được 10 hôm như vậy
đã đến lúc đám nô lệ mới phải rời khỏi ngôi nhà họ
đang sống chung và được chia làm hai toán nam (nô) và nữ
(tỳ). Hai chị em thà chết chứ không chịu rời nhau. Người
quản lý nô lệ bèn lên trình với chủ. Dayuu mới phán:
-Muốn đùa à? Phải
tách nô ra nô, tỳ ra tỳ và bắt chúng nhóm nào ở theo nhóm
nấy!
Khi người quản lý
định đi ra để chấp hành lệnh chủ thì cậu hai Jirô đang
đứng cạnh bên đã gọi giật hắn lại và thưa với cha mình:
-Bố dạy phải tách
bọn trẻ ra là đúng nhưng tụi nó thà chết chứ không chịu
xa nhau. Thái độ ấy là ngu ngốc nhưng chúng cũng dám làm
liều lắm. Tuy công việc múc nước, gánh củi không đáng
là bao nhưng mình cũng sẽ tổn thất nhân lực. Cho phép con
tính xem có cách nào hay hơn không.
-Con nói cũng không
sai. Ta ghét nhất là chuyện bị thiệt thòi. Thôi, ta để cho
con tùy ý quyết định!
Nói xong Sanshô Dayuu
quay đi không bàn đến chuyện đó nữa.
Jirô bèn cho dựng một
cái lều con ở cánh cửa trong cùng cho hai chị em ở chung.
Một buổi chiều, như
thói quen, hai chị em ngồi bên nhau bàn chuyện cha mẹ. Tình
cờ Jirô đi ngang qua và nghe thấy. Jirô là người hay đi tuần
phòng trang viên, hễ thấy nô tỳ nào mạnh mà hiếp yếu,
cãi vã hay trộm cắp thì điều tra và xử phạt.
Jirô bước vào trong
lều, nói với hai đứa trẻ:
-Tụi bay có thương
cha nhớ mẹ thì cũng nên biết rằng Sado là một chỗ rất
xa xôi mà Tsukushi lại còn xa hơn nhiều. Trẻ con như tụi bay
không thể nào đi đến nơi đâu. Nếu muốn gặp lại cha mẹ
thì phải chịu khó chờ cho đến khi khôn lớn.
Nói xong cậu ta bước
ra khỏi đó.
Bẵng đi một dạo,
vào một buổi chiều, hai đứa trẻ lại nói chuyện với nhau
về cha mẹ chúng. Lần này thì cậu ba Saburô đi ngang nghe lóm
được. Saburô thích đi bắt những con chim đang ngủ (netori)
cho nên thường cầm theo cung đi lòng vòng xem xét các bụi
cây trong trang viên.
Hai chị em khi bàn chuyện
cha mẹ chúng thường đưa ra giải pháp này giải pháp nọ.
Vì nôn nóng muốn gặp hai người nên chúng nghĩ ra đủ mọi
phương cách, chung nói cả những điều viễn vông như người
đang mơ. Hôm ấy, cô chị lên tiếng:
-Nếu chị em mình chưa
đủ khôn lớn thì đúng là không thể làm một chuyến đi
xa để gặp được ba mẹ. Ước mơ của chúng mình là chuyện
khó lòng lắm đấy em. Tuy vậy, chị đã nghĩ nhiều rồi.
Không có cách nào hơn là phải bỏ trốn nhưng nếu hai đứa
đi chung thì sẽ không thoát được. Thôi em cứ mặc kệ chị
mà trốn một mình đi. Thế rồi khi đến Tsukushi gặp được
cha, hỏi ông mình phải làm sao. Sau đó sẽ ra đảo Sado mà
đón mẹ về!
Những điều Saburô
nghe lóm được, khổ thay, chính là những lời Anju đã căn
dặn cậu em.
Saburô bèn mang cung
tên đột ngột đi vào bên trong túp lều:
-Cha chả! Bọn mầy
đang bàn tính chuyện thoát thân đấy phỏng? Ở đây, đứa
nào âm mưu bỏ trốn là bị khắc ấn nung đỏ vào mặt, nghe
chưa? Qui luật của trang viên này là thế đấy. Ấn sắt nung
lên nóng lắm đấy nhé.
Mặt hai đứa trẻ
xanh như chàm đổ. Anju bước ra trước mặt Saburô và nói:
-Cháu chỉ nói đùa
với em cháu thôi. Ông nghĩ xem, nếu em cháu đi một mình, thử
hỏi nó sẽ đi được bao lăm. Chỉ vì hai cháu mong gặp cha
mẹ ở phương xa nên mới thốt ra những lời như vậy. Mấy
hôm trước đây, chúng cháu đã muốn hóa thành chim để đến
nơi cha mẹ cháu. Dại mồm dại miệng nên cứ thốt ra điều
mình mơ ước thôi mà.
Zushiô thì nói:
-Đúng như chị cháu
đã thưa với ông.Vì muốn bày tỏ lòng thương cha nhớ mẹ
nên mỗi ngày cũng như hôm nay, chúng cháu toàn nói cho nhau
nghe những chuyện viễn vông, không thể nào làm được.
Saburô nhìn vào mặt
hai đứa trẻ như kiểm tra lời chúng nói và im lặng một
hồi lâu:
- Hưừm! Bay muốn nói
dối thì cứ việc nói dối. Tao đã nghe không sót những điều
bọn mầy vừa họp bàn với nhau.
Nói xong, Saburô bước
ra khỏi đó.
Buổi chiều hôm đó
tuy cảm thấy lo lắng nhưng hai đứa trẻ vẫn lăn ra ngủ.
Cũng không biết chúng đã ngủ được bao lâu khi có tiếng
động đâu đây làm cho chúng mở mắt. Kể từ khi đến túp
lều này, chúng đã được phép dùng đèn lửa. Ánh đèn li
ti như vậy đủ cho chúng thấy Saburô đang đứng ngay trước
đầu nằm. Saburô bất chợt đến gần rồi đưa tay ra nắm
lấy tay của hai đứa và kéo chúng dậy, lôi ra khỏi cửa.
Dưới ánh sáng màu xanh lạnh lẽo của vầng trăng, chúng thấy
mình bị kéo ra một con đường rộng lợp ván dày gọi là
"mã đạo" [14],
leo lên ba bậc thang cấp, thông qua một hành lang dài và sau
khi quanh đi quanh lại thì tới được gian đại sảnh của
ngày hôm trước. Ở đó đã thấy rất nhiều người với
vẻ mặt lầm lì đang tụ tập. Saburô bèn kéo hai đứa đến
trước một lò than đang cháy đỏ. Kể từ khi bị lôi kéo
xềnh xệch ra khỏi lều, chúng cứ van lơn luôn miệng: "Ông
tha cho con! Ông tha cho con!" thế nhưng Saburô vẫn im thin thít
và tiếp tục lôi kéo. Rốt cuộc chúng cũng đành riu ríu đi
theo. Phía bên kia lò có trải một chỗ ngồi với ba tấm nệm
chồng lên nhau và Sanshô Dayuu đang chễm chệ trên đó. Mặt
lão ta đỏ rực như cháy lên vì phản chiếu ánh lửa phần
phật của mấy bó đuốc cắm hai bên tả hữu chỗ ngồi.
Saburô lấy từ trong lửa lò một que sắt cời than đã được
nung đến đỏ au. Hắn cầm nó trên tay một đỗi, ngắm tới
ngắm lui. Que sắt ban đầu cháy rực đến trong suốt dần
dần đã chuyển qua màu đen.
Lúc ấy, Saburô kéo
Anju lại gần và định dí que sắt ấy lên nhưng Zushiô đã
bám lấy cùi chõ hắn. Saburô bèn đá cho cậu ngã rồi lấy
đầu gối phải đè lên người và đưa que sắt nóng in một
hình chữ thập đúng vào trán Anju. Tiếng rú thảm thiết của
cô bé vang lên lanh lảnh trong cái im lặng của gian đại sảnh.
Saburô bèn buông Anju qua một bên rồi vực Zushiô từ bên dưới
đầu gối của mình lên và in ngay vào trán của cậu một
chữ thập khác.Tiếng khóc thét của Zushiô lại vang lên hòa
lẫn vào tiếng khóc giờ đã nhỏ đi và chỉ còn nghe ri rỉ
của người chị. Saburô bèn vứt que sắt đi và cũng như lần
trước khi hắn dắt hai chị em đến đây, đưa hai tay ra nắm
lấy cánh tay chúng. Thế rồi, sau khi đảo mắt nhìn khắp
những người đang có mặt, hắn bèn dẫn chúng dạo một vòng
lớn trong gian đại sảnh. Hắn kéo hai đứa trẻ đến chỗ
có bậc thang cấp và đẩy chúng ngã sóng soài trên mặt đất
lạnh đông cứng. Hai đưa trẻ thiếu điều bất tỉnh vừa
vì cái đau của vết thương trên mặt vừa vì nỗi sợ hãi
trong lòng. Ráng nhịn cái đau, không biết bằng cách nào mà
cuối cùng chúng đã về được túp lều nằm ở vòng rào
thứ ba bên trong trang viên. Hai đứa ngã lăn lên chỗ nằm
một đỗi, không cựa quậy, trông chẳng khác nào hai cái thây
ma. Đột nhiên, Zushiô cất tiếng gọi: "Này chị ơi, mình
nhanh nhanh cầu khấn Đức Phật Jizô (Địa Tạng) đi chị!".
Anju bèn chỗi dậy và lấy cái túi đựng bùa hộ thân đeo
trên người ra. Tay run run, cô mở giải giây của cái túi ấy,
lấy bức tượng Phật Địa Tạng ra và đặt lên mặt gối
còn hai chị em thì quì hai bên và cúi đầu làm lễ. Mới đây,
trán của chúng rất là ê ẩm, cắn răng vẫn còn đau mà sao
bây giờ cái đau đó đã tiêu tán đi đâu cả. Chúng đưa
bàn tay lên thử vuốt vào vết thương ban nãy thì thấy ngay
vết sẹo giờ cũng không còn. Chúng không khỏi ngạc nhiên
nhưng vừa vặn lúc đó, cả hai cùng choàng tỉnh.
Hai đứa trẻ ngồi
bật dậy và kể cho nhau nghe những chuyện vừa xảy ra trong
mộng. Thì ra chúng đã thấy cùng một giấc mơ vào đúng một
thời điểm. Cũng như điều cô đã làm trong giấc mơ, Anju
bèn lấy bức tượng Địa Tạng ra đặt lên trên gối. Sau
đó hai đứa trẻ cùng sụp xuống lễ Ngài. Dưới ánh sáng
leo lét của ngọn đèn, chúng nhìn vào khuôn mặt của Đức
Địa Tạng thì thấy là ở giữa đôi mày của Ngài có một
vết thương hình chữ thập rất rõ ràng như thể có ai đó
đã lấy con dao đẽo của nhà điêu khắc để đục lên đó.
Từ cái hôm bị Saburô
nghe lén rồi đêm đó nằm thấy một giấc mộng hãi hùng,
thái độ của Anju đã thay đổi hẵn. Cô như khép kín, gương
mặt không còn biểu lộ một tình cảm nào cả. Đầu chân
mày thường nhíu lại và đôi mắt đăm đăm nhìn dõi về
xa. Thế rồi cô trở nên câm nín. Cho đến lúc đó, mỗi buổi
chiều khi từ ngoài bãi biển trở về, cô thường đợi cậu
em từ trên núi xuống để cùng về nhà và hàn huyên tâm sự
với nhau, thế nhưng nay thì ngay vào những lúc đó, cô cũng
đâm ra ít nói. Zushiô hết sức lo lắng, hỏi han. "Chị ơi,
chị làm sao vậy?". Cô chỉ trả lời: "Có gì đâu em. Chị
bình thường mà!" và cố gắng nở một nụ cười để che
dấu nỗi khổ tâm.
Chuyện Anju tỏ ra khác
trước chỉ thể hiện có chừng đó chứ từ lời ăn tiếng
nói cho đến việc làm của cô thì vẫn như xưa và không có
gì sai phạm. Thế nhưng đối với Zushiô thì khi cậu thấy
người chị từng an ủi mình và mình từng an ủi lại nay
có sự thay đổi như thế, lòng cậu rất cay đắng mà không
biết tâm sự cùng ai. So với trước đây, cảnh ngộ của
hai đứa trẻ còn thê thảm hơn một bậc.
Tuyết khi rơi khi tạnh,
trời sắp bước vào tiết cuối năm. Bọn nô tỳ được phép
không phải ra ngoài lao động mà chỉ làm việc trong nhà. Anju
quay tơ còn Zushiô đập lúa. Đập lúa là công việc chả cần
phải học cũng làm được nhưng quay tơ không phải chuyện
dễ. Cho nên buổi tối thường có Ise no Kohagi tìm tới để
giúp đỡ và chỉ bảo. Không những thái độ của Anju đối
với em trai đổi khác mà ngay đôi với Kohagi, cô cũng trở
nên ít nói, mà nếu có nói thì cũng không tỏ ra niềm nở.
Tuy nhiên, Kohagi không vì thế mà mếch lòng, vẫn đối xử
dịu dàng với cô như trước.
Bên cánh cổng gỗ
trang viên, Sanshô Dayuu có cho trồng nhiều hàng tùng. Thế nhưng
bây giờ, ngay đầu năm mà nơi đây không có vẻ gì là tươi
sáng. Đám đàn bà con nít nhà chủ chỉ rúc vào bên trong,
ít khi ra vào nên không khí thiếu cái vẻ nhộn nhịp. Duy có
cảnh người trên kẻ dưới ai nấy đều nhậu nhẹt. Trong
ngôi nhà của bọn nô lệ nam chỉ vọng ra toàn tiếng cãi
vã. Thường thì hễ cãi nhau là bị trừng phạt nặng nhưng
vào dịp rày dù chuyện đó có xảy ra, người quản lý nô
tỳ cũng tỏ ra rộng lượng. Ngay cả khi có đổ máu, ông
ta cũng làm bộ như không hay biết. Đến độ dù có ai bị
giết có lẽ ông ta cũng thây kệ.
Còn trong túp lều buồn
thảm của hai chị em bên cánh cổng gỗ thứ ba, đôi khi có
bóng Kohagi đến chơi. Như thể cô đã đem không khí náo
nhiệt từ ngôi nhà của đám nô lệ phụ nữ tới nơi đây
và sau những câu chuyện của cô, túp lều ảm đạm của hai
chị em cũng có được chút không khí mùa xuân. Ngay cả Anju,
dù dạo sau này tính tình có biến đổi, cũng để phảng phất
trên môi một nụ cười hiếm có.
Đến ngày mồng ba
thì công việc bắt đầu trở lại. Anju quay tơ và Zushiô đập
lúa. Đến đêm khi Kohagi tìm tới, cô thấy Anju bây giờ đã
thạo việc, hai tay thoăn thoắt, hầu như không còn cần sự
trợ giúp nào nữa. Tuy bên ngoài tính tình cô có thay đổi
nhưng đối với những công việc thầm lặng và theo một nhịp
điệu đều đặn như thế này thì cô làm một cách rất thoải
mái. Hơn nữa, khi chuyên chú với công việc, hình như cô quên
đi được những điều lo nghĩ và nhờ đó, lòng cũng lắng
dịu. Tuy bây giờ Zushiô không còn nói chuyện được với
chị mình như ngày trước nữa nhưng nhìn cảnh tượng Kohagi
kể chuyện cho Anju nghe trong lúc cô ấy quay tơ, cậu cảm thấy
không có gì có thể làm mình vững tâm hơn.
Nước đã ấm lại,
cỏ nẩy mầm xanh, mai là ngày bọn nô lệ bắt đầu phải
ra bên ngoài lao động. Cậu hai Jirô đang đi tuần tra chung
quanh trang viên và ghé đến túp lều cạnh cánh cổng gỗ thứ
ba. "Sao, tụi nhóc, ngày mai có thể đi làm lại được chưa
đó! Lắm đứa hình như đang ốm. Đó là mới nghe qua quản
lý thôi nhưng ta phải đích thân xem xét thì mới tỏ tường.
Vì thế, ta phải đến từng nhà một để kiểm điểm".
Đang đập lúa, Zushio
dợm trả lời nhưng khi cậu chưa kịp lên tiếng thì đã thấy
Anju, với một thái độ khác hẵn ngày thường, ngừng tay
xe tơ và bất chợt tiến tới trước mặt Jirô. "Về việc
đó, cháu có một điều xin ông giúp cho. Cháu mong ông cho phép
hai chị em cháu cùng được làm việc chung một chỗ ạ. Cúi
xin ông bố trí cách nào để cháu có thể lên trên núi làm
việc với em cháu!"
Gương mặt của cô
đang xanh xao bỗng ửng hồng lên và đôi mắt sáng long lanh.
Zushiô kinh ngạc. Cậu
vừa nhìn thấy chị mình thay đổi thái độ một lần thứ
hai. Hơn nữa chị ấy chẳng thèm bàn bạc trước với mình
mà đột ngột mở miệng xin được cùng đi đốn củi thì
thật là quái gở. Cậu chỉ biết mở mắt thật to theo dõi
cảnh tượng đang xảy ra như muốn che chở cho chị mình.
Jirô chẳng nói chẳng
rằng mà chỉ đăm đăm nhìn thái độ của cô gái. Anju lập
lại lời xin: "Cháu chỉ mong mỗi một điều đó thôi. Ông
cho phép cháu đi núi cùng với em cháu!"
Một đỗi sau Jirô
mới mở miệng:
-Trong trang viên này,
việc sai phái nô tỳ là một trọng trách, chỉ cha ta mới
là người có quyền cắt đặt. Thế nhưng này Shinobugusa, nghe
điều mi xin thì thấy mi rất thiết tha nên ta sẽ trình lên
cụ và nói góp cho, chắc thế nào mi cũng được phép lên
núi làm việc. Cứ yên trí. Hai đứa bay còn bé mà đã sống
qua được mùa đông là tốt lắm đấy.
Nói xong, Jirô đi ra.
Zushiô buông cái vồ
đập lúa và đến bên chị:
-Tại sao thế chị?
Nếu chị được phép đi núi cùng với em phải nói là em rất
mừng nhưng vì lý do gì chị bất chợt xin họ như vậy hở?
Lại không bàn trước với em.
Zushiô thấy gương
mặt chị ửng hồng như có gì vui sướng.
-Chị nghĩ sao thì nói
vậy thôi. Trước khi ông ta đến đây, chị cũng chưa có ý
xin xỏ gì. Bất chợt lúc đó trong đầu chị mới nảy ra
cái ý ấy.
-Thế à? Quái nhỉ!
Zushiô ngắm khuôn mặt
người chị mà tưởng chừng mình đang nhìn một vật gì lạ
lẫm.
Người quản lý đem
giỏ và liềm đến.
-Này Shinobugusa, ta nghe
nói mi được phép ngừng việc đi quẩy nước biển và chuyển
sang kiếm củi nên mới đem vật dụng làm việc tới cho mi
đây. Bù lại, hãy đem thùng gỗ và gáo nước ra để ta thu
về.
-Cháu làm phiền ông
quá!
Anju nhẹ nhàng đứng
lên lấy thùng và gáo ra trả. Người quản lý thu lấy đồ
nhưng có vẻ chưa chịu về ngay. Gã đàn ông này là người
nhất nhất tuân theo ý chủ, xem những gì gia đình Sanshô Dayuu
thốt ra như là lời thần thánh thác vào họ. Hắn không hề
lưỡng lự khi phải làm những chuyện tàn ác, bất nhân nếu
là vì chủ. Thế nhưng bẩm sinh tính hắn đã thế rồi. Thấy
người khác sầu khổ hay than khóc, hắn cũng chả động lòng.
Nếu mọi chuyện xảy ra êm thắm, hắn không cần để mắt
tới mà cũng trót lọt thì hắn cứ mặc cho nó xảy ra. Sở
dĩ giờ đây hắn có một vẻ mặt ngao ngán là vì hắn đang
bị bắt buộc không để cho người khác phải mếch lòng.
Khi nói ra hay làm một điều gì, người đàn ông này thường
để lộ cái tình cảm như vậy ra ngoài mặt.
Lúc ấy, hắn hướng
về phía Anju và nói:
-Giờ thì ta có một
nhiệm vụ như thế này. Thực ra việc cho phép lên núi lấy
củi thì cậu Jirô không thể nào quyết định suông. Cậu
đã phải thưa lên cụ ông. Lúc đó, cậu Saburô cũng đứng
bên cạnh nên mới bảo: "Nếu thế thì phải bắt con Shinobugusa
cắt tóc ngắn như con trai (kiểu ô- warawa) [15]
mới được". Cụ ông bèn phá lên cười và chấp thuận đề
nghị đó. Vì thế hôm nay ta phải đến đây xin món tóc của
mi đem về trình.
Mái tóc cắt
kiểu con trai của Kagawa Kyôko trong vai Anju
Zushio đang đứng bên
cạnh nghe hắn nói thế mà thấy lồng ngực như có dao đâm.
Mắt mờ những lệ, cậu nhìn người chị.
Điều đáng ngạc nhiên
là lời nói của người quản lý không làm cho Anju mất đi
nét hân hoan:
-Đúng rồi đó. Đi
chặt củi thì cháu phải giống con trai chứ nhỉ! Liềm đây,
xin ông cắt hộ cho.
Rồi cô đến trước
mặt người quản lý nô lệ và vươn cần cổ. Mái tóc dài
và óng ả của Anju đã ra đi sau một nhát liềm.
* * *
Ngày hôm sau, giỏ trên
vai và liềm trong tay, hai đứa trẻ cùng nhau vào núi. Chúng
dắt tay nhau đi ra khỏi cổng gỗ của trang viên. Kể từ ngày
đến chỗ Sanshô Dayuu, đây là lần đầu tiên hai chị em mới
có dịp cùng nhau sóng bước như thế này.
Zushiô không sao đoán
được ý nghĩ của chị mình nên lòng cậu mang nặng một
tình cảm vừa giống như buồn vừa giống cô đơn. Hôm qua,
sau khi người quản lý về rồi, cậu đã đặt ra nhiều câu
hỏi khác nhau để dò ý chị thì hình như cô chị đang nuôi
một ý tưởng thầm kín trong đầu nhưng khi cô chưa kịp nói
ra thì trời đã rựng sáng.
Khi đến được chân
núi, Zushiô cảm thấy không thể nhịn nổi nữa, mới bảo:
-Chị ơi. Chẳng mấy
khi mới có dịp đi chung với chị, đáng lẽ em phải vui lắm
đấy nhưng lạ thay, hôm nay em lại cảm thấy buồn không thể
tả. Em nắm tay chị dắt đi như thế này, quay về phía chị
nhưng không nỡ nào nhìn cái đầu chị húi kiểu đàn ông.
Chắc chị có điều gì mưu tính trong đầu và muốn dấu diếm
cả em, phải không? Sao chị lại xử tệ với em như vậy?
Buổi sáng hôm đó,
niềm vui vẫn tràn trề trên vầng trán của Anju như một vầng
hào quang. Đôi mắt to của cô sáng long lanh. Thế nhưng cô
vẫn không trả lời câu hỏi của cậu em mà chỉ khẽ kéo
bàn tay đứa em trai về phía mình và nắm lấy thật chặt.
Trên con đường lên
núi có một cái đầm nước. Bên bờ đầm, giống như cảnh
đã thấy hồi năm ngoái, có rất nhiều cây lau khô xác xơ,
đâm ngang đâm dọc, thế nhưng giữa đám cỏ vàng úa mọc
bên bờ đường đã thấy những mầm xanh đang nhú. Từ bờ
đầm đi lên và quẹo về phía tay phải, có một giòng suốt
trong vắt vọt ra từ giữa hai ghềnh đá. Qua khỏi chỗ đó
là con dốc dẫn lên cao chạy dọc theo vách núi. Vừa lúc ấy,
ánh nắng mai đang chiếu khắp nơi trên bìa đá. Anju khám phá
ra giữa những nếp chồng xếp lên nhau trên ghềnh đá, ở
một quãng bị thời tiết xói mòn, có một bụi lan tím (sumire)
bám rễ và đang ra hoa. Cô mới lấy ngón tay chỉ cho Zushiô:
-Này em xem. Mùa xuân
về rồi kìa!
Zushiô chỉ im lặng
gật đầu. Cô chị vẫn giữ chặt cho mình điều bí mật
còn cậu em đang chất nặng nỗi buồn trong lòng thì làm sao
cậu có thể biểu lộ sự đồng tình với chị. Lời cô nói
với em chẳng khác nào dòng nước chảy trên cát, vừa đến
giữa đoạn đường đã thấm khô và không để lại dấu
tích.
Khi đến bên lùm cây
năm ngoái cậu từng đốn củi, Zushiô bèn dừng bước.:
-Chị ơi! Đây là chỗ
em vẫn lấy củi đó.
-Ờ, mà khoan! Mình
lên trên cao một tí nữa xem sao.
Anju tiến về phía
trước và thoăn thoắt leo lên con dốc. Zushiô lấy làm quái
lạ nhưng cũng lẽo đẽo sau lưng. Được một đỗi, hai chị
em đã bỏ xa khu rừng gỗ tạp bên dưới và đến một nơi
có thể gọi là một đỉnh cao bên rìa núi.
Anju đứng lại nơi
đó. Mắt cô nhìn dõi về hướng Nam. Tầm mắt cô vượt khỏi
bãi Ishiura để đến tận đầu nguồn Ôkumogawa, con sông đổ
vào cảng Yura. Bên kia bờ sông và cách chừng một dặm (=
4 km) mắt cô dừng lại ở ngọn Nakayama. Trên đỉnh núi thấy
có một ngọn tháp vươn lên giữa vùng cây lá dày đặc. Thế
rồi cô gọi cậu em:
-Này Zushiô, có một
chuyện chị suy nghĩ đã lâu. Lúc sau này chị không chịu trò
chuyện với em như xưa, chắc điều đó đã làm em lấy làm
kỳ lạ. Đúng không? Thôi, hôm nay không phải chặt củi làm
chi nữa mà hãy lắng nghe lời chị nói đây. Chị Kohagi đã
bị bán đi từ bến Ise nên đã chỉ vẽ cho chị về đoạn
đường từ ngôi làng của chị ấy đến đây. Nếu em đi
được đến núi Nakayama thì em đã tới gần sát kinh đô (ý
nói kinh đô Heian ở Kyôto, LND). Việc xuống tận Tsukushi quá
khó khăn mà chuyện quặt ngược lại để vượt biển ra Sado
cũng không kém phần lao khổ. Thế nhưng kinh đô thôi thì nhất
định em sẽ tới được. Kể từ ngày hai chị em mình theo
mẹ rời Iwashiro cho đến này, chúng ta chỉ gặp toàn những
phường gian ác. Tuy vậy, vận mệnh của con người phải có
lúc thông suốt, thế nào mình cũng sẽ gặp được kẻ hiền
lương. Vậy từ đây em phải quyết tâm, làm sao thoát ra khỏi
chốn này và đến được kinh đô cho chị. May ra mà Thần
Phật đưa đường em gặp được người tốt thì họ sẽ
giúp em biết tin tức của cha chúng mình dưới Tsukushi bây
giờ ra sao. Và lúc đó có lẽ em cũng có thể ra đảo Sado
rước mẹ về. Để giỏ và liềm lại! Đi đường chỉ cần
xách theo hộp đựng cơm là đủ.
Zushiô im lặng nghe
chị giải bày nhưng nước mắt của cậu chảy dài xuống
hai bên má:
-Thế thì còn chị.
Chị tính ra sao hở chị?
-Em đừng lo chi chuyện
của chị. Việc này tuy em làm một mình nhưng hãy xem như chị
đang cùng làm với em. Khi nào em gặp mặt cha và đón được
mẹ ngoài đảo về rồi thì hãy trở lại đây cứu chị ra
nhé!
-Thế nhưng nếu bọn
chúng không thấy em về sẽ làm khổ thân chị.
Trong đầu Zushiô lại
hiện ra cảnh đóng dấu sắt nung đỏ quá khủng khiếp cậu
từng thấy trong giấc mộng.
-Tất nhiên chúng sẽ
hành hạ đủ điều nhưng chị sẽ nhẫn nhục chịu đựng
tất cả. Chúng không giết nô tỳ mà chúng đã phải bỏ tiền
ra mới mua về được đâu. Chị sẽ nhớ đến chỗ lùm cây
mà em vừa chỉ để ra đó chặt cho thật nhiều vào. Cho dù
không đủ sáu gánh nhưng cũng sẽ chặt đến bốn hay năm
gánh. Thôi, mình cùng xuống chỗ đó và bỏ liềm với giỏ
lại. Sau đó chị sẽ tiễn em đến dưới chân núi.
Nói xong, Anju đứng
dậy và đi xuống trước.
Đầu óc rối lên,
Zushiô không còn biết nghĩ gì, chân cứ bước theo chị mà
đi. Chị cậu năm nay 15 tuổi, còn cậu 13 nhưng con gái thường
sớm chín chắn, hơn nữa, dường như có thần linh phù hộ
hay sao mà đầu óc lại sáng láng. Vì vậy khi cô nói điều
chi, Zushiô không bao giờ dám cãi.
Khi đã xuống tới
chỗ lùm cây, hai đứa trẻ bỏ giỏ và liềm cắt cỏ lại
trên đống lá khô. Cô chị lấy lá bùa có tượng vị Phật
bản mệnh của mình đặt vào tay em:
-Đây là lá bùa hộ
mệnh quan trọng lắm đấy. Chị trao em giữ hộ cho đến ngày
mình gặp lại nhau. Hãy xem Đức Phật Địa Tạng này chính
là chị và giữ gìn nó cẩn thận tựa như thanh đoản đao
hộ thân của em.
-Thế chị không mang
bùa hộ mệnh nữa à?
-Phải. Em mới cần
lá bùa ấy hơn chị vì em có thể gặp chuyện hiểm nghèo
hơn nên chị gửi tạm nó cho em. Tối nay nếu chúng không thấy
em quay về trại, nhất định sẽ cho người theo đuổi bắt.
Dù em có chạy nhanh đến đâu vẫn chưa chắc là không bị
bắt kịp. Vậy trước tiên hãy đi đến một chỗ tên là
Wae ở thượng nguồn con sông hồi nãy từ trên cao mình đã
thấy đó, cố đừng để cho những kẻ đuổi theo khám phá
mà vượt qua bờ đối diện. Chỗ đó không còn cách Nakayama
bao lăm nữa. Nếu đến được nơi đó, em sẽ nhìn thấy cái
tháp cao của một ngôi chùa. Hãy vào đó mà xin trú ẩn. Đợi
đến khi toán người đuổi bắt quay về thì trốn ra khỏi
chùa.
-Nhưng vị sư trụ
trì có chịu cho mình nấp ở chùa ấy hay không chứ?
-Duyên may phận rủi,
em ạ! Nếu vận em thông suốt, thày ấy có thể cho em nấp
ở đấy thôi.
-Đúng đấy! Lời chị
nói hôm nay như đã được thốt ra từ miệng Thần Phật.
Em đã suy nghĩ kỹ rồi và sẽ hành động y theo lời chị
dặn.
-Ôi chao, em đã hiểu
hết lời chị rồi nhỉ? Các thày là người nhân từ, thế
nào cũng che chở cho em.
-Phải rồi đấy chị.
Nãy giờ em cũng suy nghĩ như thế. Nếu thoát thân, em sẽ lên
tới kinh đô và có thể tìm gặp cha và mẹ. Em lại có thể
trở về đây mà cứu chị ra.
Đôi mắt của Zushiô
lúc ấy cũng sáng lên như đôi mắt của chị cậu.
-Này, nhanh lên nào!
Chị sẽ đưa em xuống tận chân núi.
Hai đứa trẻ gấp
rút xuống núi. Bước chân của chúng giờ đây cũng nhẹ nhàng
khác trước làm như sự ấm áp trong lòng người chị đã
truyền sang cho cậu em.
Đi đến chỗ có giòng
suối phun ra, người chị lấy cái bát gỗ đi kèm theo hộp
cơm múc lên một bát nước trong:
-Đây là chén rượu
mừng ngày em bước ra khỏi cửa đó!.
Cô uống một ngụm
rồi trao cái bát cho đứa em.
Cậu em uống một hơi
cạn sạch cái bát:
-Thế thì em cũng chúc
chị ở lại mạnh giỏi. Nhất định em không để bọn truy
lùng bắt được và sẽ đến Nakayama cho coi.
Còn mươi bước nữa
là hết con dốc, Zushiô bèn chạy một mạch xuống dưới,
men theo con đường bên bờ đầm mà ra đường lớn, nhanh chân
nhắm hướng thượng nguồn sông Ôkumogawa trực chỉ.
Anju đứng lại bên
bờ suối, nhìn dõi theo hình ảnh đứa em trai lúc ẩn lúc
hiện sau hàng cây tùng như để tiễn đưa. Cô chờ cho đến
khi cái bóng của nó khuất dần. Hôm đó tuy trời đã sắp
trưa nhưng cô không buồn leo lại lên núi. May thay hôm nay ở
phía núi này không một bóng người qua lại nên chẳng ai nhìn
thấy cảnh cô đứng lại tần ngần một đỗi trên quãng
dốc.
Sau đó gia đình Sanshô
Dayuu đã phái người truy lùng hai chị em. Khi bọn gia nhân
đến bên bờ đầm, chúng chỉ nhặt được một đôi dép
rơm nhỏ của ai bỏ lại đó. Đó là đôi dép Anju vẫn mang.
* * *
Anju tự trầm
để nhẹ gánh cho em trai một mình tìm mẹ
Trước cửa tam quan của
ngôi quốc tự [16]
ở Nakayama, ánh đuốc thông chiếu sáng rỡ trên một đám
đông hỗn tạp. Đứng đầu đám gia nhân là cậu ba Saburô
nhà Sanshô. Tay cậu lăm lăm một thanh kiếm dài to bản, cán
bịt trắng.
Đến trước cửa đền,
Saburô quát tháo:
-Bọn chúng ta là người
nhà của gia trang Sanshô ở Ishiura. Hiện có một tên nô lệ
dưới quyền ngài Sanshô Dayuu bỏ trốn vào trong núi này. Có
kẻ đã xác nhận với chúng ta điều đó. Nhất định chỗ
trốn của hắn là mấy ngôi chùa chứ không nơi nào khác.
Vậy các ngươi hãy lôi cổ nó ra đây!
Bọn gia nhân nhao nhao
hùa theo:
-Nào, lôi cổ nó ra
đây! Lôi cổ nó ra đây!
Từ ngôi chính điện
ra đến ngoài cổng, có một khoảng sân rộng lót sỏi. Trên
mặt sỏi, với đuốc trong tay, bọn tay chân của Saburô đang
nhốn nháo và xô đẩy nhau. Còn hai bên sân thì tất cả tăng
tục sống trong chùa – hầu như không sót một ai – đều
ra đó đứng dàn ra đó. Sở dĩ có chuyện như thế là vì
khi có tiếng ồn ào ngoài sân, họ lấy làm quái, không biết
đang có gì xảy ra ở khu chính điện hay nhà kho nên mới kéo
ra xem.
Ban đầu, khi bọn người
truy lùng đòi mở cổng cho họ vào bên trong, nhà chùa lo lắng
nếu làm như vậy, có khả năng họ sẽ bị nhóm ấy hành
hung nên nhiều vị tăng đã đề nghị đừng mở. Biết vậy
mà nhà sư trụ trì là thày risshi (luật sư) Donmyô ((Đàm Mãnh) [17]
vẫn cho mở cổng. Tuy nhiên, giờ đây dù trong một lúc lâu,
Saburô quát tháo đòi họ đem giao cho hắn kẻ nô lệ bỏ trốn,
cánh cửa chính điện vẫn đóng im lìm.
Saburô dậm châm dậm
cẳng, lập đi lập lại hai ba lượt. Trong đám bộ hạ của
hắn, có đứa lên tiếng gọi:
-Ới ông hòa thượng,
thế này là thế nào!
Xen vào câu nói của
hắn có mấy tiếng cười khúc khích.
Chừng một đỗi sau,
cánh cửa chính điện lặng lẽ mở toang. Chính thầy risshi
Đàm Mãnh đã tự tay mình mở. Thày chỉ quấn mỗi một cái
pháp y [19]
từ trên vai buông xuống và không cần đeo thêm một thứ trang
sức nào tạo dáng uy nghi. Thầy đứng trên bậc thang lên chính
điện dưới ánh sáng lù mù của ngọn thường đăng [18]
đang chiếu lên người. Dáng thầy cao và vững chãi như vách
đá, khuôn mặt rắn rỏi với hàng mi hãy còn đen, tất cả
hiện ra dưới ánh lửa lập lòe. Thầy risshi này chỉ mới
ngoài năm mươi tuổi.
Thày risshi thong thả
cất lời. Bọn truy lùng đang ồn ào chỉ cần thấy bóng dáng
của thầy là đã im bặt. Tận từng góc sân, tiếng của thầy
vang lên nghe rõ mồn một:
-Có phải các ngươi
đến đây để kiếm cho ra tên nô lệ bỏ trốn không? Ở
chùa này không ai có thể cho người lạ ở lại mà không được
phép của sư trụ trì là ta đây. Vì ta không biết tới chuyện
đó nên chắc chắn là hắn không có mặt trong chùa này. Đã
vậy mà giữa đêm hôm các ngươi còn kéo cả đàn cả bầy
mang kiếm kích đến đây buộc chúng ta phải mở cửa tam quan.
Phải chăng các ngươi muốn phá rối trị an nhà nước? Ta
tưởng các ngươi đi bắt kẻ phản nghịch của triều đình
nên mới cho mở cổng. Té ra là gì nào? Chẳng qua các ngươi
chỉ muốn bắt một kẻ nô bộc trong nhà đem về tra hỏi.
Chùa ta có sắc chiếu của hoàng gia, trên cửa tam quan đã
có bảng yết thị. Tháp bảy tầng kia còn chứa kinh văn chép
bằng thủ bút của Thiên Hoàng. Kẻ nào dám gây ra náo loạn
sẽ bị lực lương an ninh của quan trấn thủ hỏi tội. Ngoài
ra, nếu chùa Tôdaiji (Đông Đại Tự) – tổng bản sơn của
chúng ta – mà đâm đơn kiện cáo, liệu các ngươi có biết
mình phải chịu rắc rối với triều đình đến mức nào
không? Hãy suy nghĩ cặn kẽ và biết điều mà rút đi cho nhanh.Ta
nói những điều đó là vì muốn giúp các ngươi chứ không
phải ghét bỏ gì.
Nói xong, thày risshi
bèn từ từ đóng cánh cửa chính điện lại. Saburô nhìn trừng
trừng cánh cửa và nghiến răng căm tức. Thế nhưng hắn không
đủ cản đảm tiến lên đằng trước để đập phá nó.
Bọn thủ hạ của hắn chỉ biết thì thào với nhau như những
chòm lá đang lao xao trước gió.
Vừa lúc đó, có kẻ
bỗng la lên thật to:
-Có phải đó là một
thằng nhóc con trạc 12, 13 tuổi hay không? Nếu đúng là nó
thì tôi biết.
Saburô giật mình đưa
mắt tìm kẻ vừa mới phát ngôn. Đó là một người đàn
ông vóc dáng từa tựa Sanshô Dayuu, cha mình. Người ấy là
kẻ trông coi gác chuông nhà chùa. Ông ta lại tiếp tục nói:
-Cái thằng nhóc đó
thì từ hồi trưa, khi đứng trên gác chuông tôi đã thấy
bóng nó đi thật nhanh ở ngoài bờ tường đất và về hướng
Nam. Chắc vì gầy gò nên trông nó nhẹ nhàng. Kiểu này giờ
đây nó đã đi được khá xa.
-Đúng nó rồi. Trẻ
con nửa ngày đi được bao lăm, có gì mà không đoán được!
Đi kiếm tiếp thôi!
Ra lệnh xong, Saburô
bèn rút quân đi.
Đám đuốc thông nối
đuôi nhau ra khỏi cổng chùa, đoàn người truy lùng đi dọc
theo bờ tường đất và về hướng Nam. Ông gác chuông lại
đứng trên lầu chuông nhìn theo bóng họ và cười lớn. Tiếng
cười ấy làm cho hai ba con quạ sau khi bị phá khuấy vì tiếng
động ồn ào và đang định tìm giấc ngủ bình yên trong lùm
cây bên cạnh bỗng giật mình sợ hãi, cùng vỗ cánh bay lên.
* * *
Ngày hôm sau, từ ngôi
quốc tự trong vùng, có mấy toán người được chia ra đi
thăm dò tin tức. Người đi về phía Ishiura về thuật lại
việc Anju tự trầm, còn người đi về hướng Nam cho biết
đám gia nhân truy lùng do Saburô chỉ huy sau khi đến tận Tanabe
cũng đã rút lui.
Hai ba hôm sau đến
phiên thày Đàm Mãnh ra khỏi chùa lên đường đi Tanabe. Thày
mang theo một cái bình bát xin cơm bằng sắt to như cái chậu.
Trong bàn tay lực lưỡng còn có thêm một cây tích trượng.
Theo sau là Zushiô - đầu đã cạo trọc – mặc tam y (san.e) [20].
Suốt ngày họ lấy đường cái mà đi, đến đêm thì vào
đủ các chùa dọc đường xin ngủ trọ. Đến được Shujakuno [21]
ở Yamashiro, thầy risshi Đàm Mãnh mới nghỉ lại Gongendô [22]
và chia tay Zushiô ở đây. Thày căn dặn Zushiô: "Nhớ giữ
gìn cẩn thận vị Phật bản mệnh. Thế nào em cũng sẽ có
cơ hội biết tin tức cha mẹ!"rồi mới quay gót trở lui.
Khi lên đến kinh đô,
nhân vì Zushiô đã mang lớp áo nhà tu nên cậu có thể đến
trọ tại Kiyomizudera (Thanh Thủy Tự) trên núi Higashiyama. Qua
một đêm ngủ ở nhà nguyện (lung đường) của chùa, sáng
hôm sau khi vừa tỉnh giấc thì cậu đã thấy một người
già cả đội mão eboshi, mặc áo nôshi, vận quần kishinuki
(mũ cao áo rộng, LND) ra vẻ nhà quyền quí đang đứng trước
chỗ mình nằm.
-Cháu là con cái nhà
ai vậy? Nếu có mang theo vật gì quí giá, hãy đưa ta xem! Vì
muốn cầu Phật cho người con gái của ta chóng lành bệnh,
ta đã đến nhà nguyện này để khấn vái từ tối hôm qua.
Chợt ta được báo mộng rằng cậu bé đang nằm ngủ trên
tấm phản bên trái có một bức tượng của vị Phật bản
mệnh và bảo ta hãy mượn bức tượng ấy mà khấn khứa.
Sáng ra ta mới trên tấm phản bên trái chỉ có mình cháu nằm.
Vậy cháu hãy cho ta biết rõ gia thế của cháu và cho ta mượn
tạm bức tượng Phật ấy nhé. Ta là người đang giữ chức
Kanpaku (Quan Bạch) [23]
tên gọi Morozane [24].
Zushiô mới thưa:
-Thưa ngài, cháu là
Zushiô, con của chức Jô (phó quan địa phương) vùng Mutsu (thuộc
Tôhoku) tên Masauji. Cách đây 12 năm, phụ thân cháu đến thăm
chùa Anrakuji (An Lạc Tự) dưới Tsukushi rồi biệt tích, gia
đình không còn nghe tin tức gì về ông nữa. Có lẽ bố cháu
mất rồi cũng nên. Năm bố ra đi, cháu mới ra đời. Cháu
lại có một người chị, lớn hơn 3 tuổi. Mẹ cháu mới dắt
hai chị em cháu về ngụ tại quận Shinobu vùng Iwashiro [25].
Sau đó mẹ thấy cháu đã khá cứng cáp mới đưa hai chị
em làm một chuyến đi xa để tìm cha chúng cháu. Nào ngờ khi
đến được xứ Echigo, gia đình cháu đã lọt vào tay bọn
buôn người gian ác. Mẹ cháu bị bán ra đảo Sado, còn hai
chị em bị bán đi Yura [26]
vùng Tango. Chị cháu đã qua đời ở Yura. Còn như vật báu
hộ thân mà cháu mang trên người, ấy là pho tượng Đức
Phật Địa Tạng này đây.
Nói xong Zushiô bèn
lấy pho tượng nhỏ ra cho viên đại thần xem.
Morozane cầm pho tượng
trong tay, ban đầu ấp nó vào trước trán như để thi lễ.
Sau đó, ông lật đi lật lại mặt trước mặt sau, cẩn thận
xem xét, xong mới nói:
-Đúng là vật xưa
ta từng nghe nói. Đây là tượng kim thân của Đức Phóng Quang
Vương Địa Tạng Bồ Tát đấy. Vật báu này đến từ nước
Kudara (Bách Tế bên Triều Tiên) và được ngài Takami-ô (Cao
Kiến Vương) [27]
xem như bùa hộ mệnh. Với cách thức nó được truyền lại
đời sau thì ta không còn có gì để đặt nghi vấn về gốc
gác của cháu nữa. Hồi đầu niên hiệu Eihô (Vĩnh Bảo, 1081-84),
lúc Thái thượng hoàng (Shirakawa) chưa ở ngôi, ta biết có
một kẻ tên Taira no Masauji vì liên lụy đến việc làm trái
phép của quan trấn thủ trong vùng nên đã bị đày xuống
Tsukushi (đảo Kyuushuu). Thế thì cháu đúng là đích tử của
người ấy! Nếu cháu có nguyện vọng hoàn tục thì mai sau
ta sẽ tâu lên hoàng thượng bổ nhiệm cháu cai quản một
địa phương [28].
Trong khi chờ đợi, hãy làm khách trong nhà của ta một ít
lâu. Vậy hãy theo ta về dinh nào!
Người gọi là con
gái của chức Kanpaku Morozane đã được Thái thượng hoàng
(Shirakawa) nhận làm dưỡng nữ và nuôi nấng, chính ra bà là
cháu gái của vợ quan đại thần này. Bà con gái này mắc
bệnh đã lâu. Sau khi mượn được bức tượng Phật của
Zushiô và cúng kiến, không hiểu sao bệnh kia bỗng biến đi
đâu mất và bà hoàng kia hoàn toàn bình phục.
Morozane mới làm lễ
hoàn tục cho Zushiô, tự mình đội mão cho cậu như đóng vai
người cha đỡ đầu. Đồng thời ông cũng gửi công văn xá
tội đến nơi Masauji đang đi đày và hỏi thăm về hiện tình
của ông ta. Chẳng ngờ sứ giả trở về cho biết Masauji đã
qua đời nơi đất khách. Zushiô sau lễ Genpuku (Lễ Thành Nhân
của samurai) đã mang tên mới là Masamichi (Chính Đạo). Khi
Masamichi nghe tin bố mất như thế, chàng chỉ viết vật vã
than khóc.
Kỳ bổ nhiệm quan
lại vào mùa thu năm ấy, Masamichi được phong làm trấn thủ
đất Tango. Tuy nhiên đây là một chức quan cai trị tầm xa [29]
đáng lý ra chàng không phải đến phó nhậm mà chỉ đặt
một viên Jô (phụ tá) trong coi thay mình. Thế nhưng quan trấn
thủ Masamichi đã thân chinh đến Tango để thi hành chính sách
cấm việc buôn bán người suốt một vùng mình quản hạt.Theo
lệnh đó thì Sanshô Dayuu phải giải phóng tất cả nô lệ
và cấp lương bổng cho họ. Một thời gian đầu, gia đình
Dayuu ngỡ rằng lệnh ấy có thể gây tổn thất lớn lao nhưng
sau mới thấy rằng kể từ lúc đó, hoạt động nông nghiệp
cũng như công nghệ trong trang viên đã phấn chấn hơn nhiều
so với trước đây. Cả một gia tộc từ đó trở nên giàu
có và vinh hiển.
Còn quan trấn thủ
Masamichi thì thăng thưởng ân nhân Danmyô (Đàm Mãnh) từ chức
Risshi (Luật sư) lên Sôzu (Tăng Đô) và cho phép Kohagi - người
bạn đã tử tế với chị Anju của mình - trở về làng cũ.
Chàng đến phúng điếu những nơi có di tích của người chị
và cho xây một chùa sư nữ bên cạnh bờ đầm, chỗ cô ấy
trầm mình.
Sau khi làm xong chừng
đó công việc ở nơi phó nhậm, quan trấn thủ mới tâu lên
triều đình xin tạm nghỉ việc một thời gian (gọi là ke.nyô
= giả ninh) để vi hành ra ngoài đảo Sado.
Chàng đến thị trấn
chính của đảo tên là Sawata và tạm trú ở đó, lại nhờ
các viên chức sở tại đi điều tra khắp nơi nhưng không
dễ gì tìm ra tung tích người mẹ.
Một hôm trong lúc chán
nản vì đã nghĩ hết cách, Masamichi một mình rời nhà trọ,
đi dạo trong thị trấn. Bỏ mấy xóm nhà dân, chàng vào một
con đường nhỏ tiếp giáp với đám rẩy. Lúc đó trời tạnh
ráo, mặt trời nắng đổ lửa. Trong lòng Masamichi thầm nghĩ:
"Cớ sao mình tìm mãi vẫn không ra tung tích của mẹ nhỉ?
Có phải tại mình giao phó việc điều tra cho đám nhân viên
mà không tự cất công đi tìm mẹ nên Thần Phật đâm ra ghét
bỏ?" Masamichi vừa đi vừa nghĩ vẩn vơ như thế. Bất đồ
khi chàng nhìn lại thì thấy hiện ra một ngôi nhà dân thật
lớn. Phía nam ngôi nhà và giữa một hàng rào sơ sài, có một
khu đất nện rộng như cái bãi. Người ta đã trải kín bằng
chiếu lát lên đó và phơi đầy những gié kê vừa mới cắt.
Chính giữa những manh chiếu ấy là một người đàn bà ăn
mặc rách rưới – trên tay cầm một cái sào dài – để
đuổi bầy chim sẻ đang sà xuống mổ những hạt kê. Lúc
ấy, có tiếng người đàn bà ấy ê a như đang hát một bài
hát nào đó.
Cuộc tái
ngộ thương tâm
Không hiểu vì cớ gì, hình ảnh người đàn
bà ấy đã thu hút Masamichi khiến chàng dừng bước và cố
nhìn cho kỹ. Mái tóc rối tung của bà ta bám đầy đất cát
và khuôn mặt là của một người mù. Masamichi không khỏi
tội nghiệp cho bà. Chàng dần dần quen với ca từ của bài
hát bà ta đang ê a và bắt đầu phân biệt được câu chữ.
Cũng chính lúc đó toàn thân chàng rúng động như người đang
ở giữa cơn sốt rét và đôi mắt bắt đầu nhòa lệ. Bởi
vì người đàn bà đó lập đi lập lại những câu hát ngắn
như sau:
"Ơi hỡi Anju,
Con yêu của mẹ,
Ơi hỡi Zushiô,
Con yêu của mẹ.
Nếu chim muốn sống,
Dù không ai đuổi,
Khôn hồn bay nhanh!
Tanaka Kinuyo
trong vai người mẹ bạc phước của hai đứa trẻ
Nghe tiếng hát, Masamichi
thờ thẫn như kẻ mất hồn. Gan ruột bỏng cháy, chàng phải
nghiến răng thật chặt mới không để thoát ra khỏi miệng
một tiếng rú thống thiết của loài thú. Như vùng ra khỏi
một cái giây đang buộc chặt lấy mình, chàng chạy vào bên
trong khu hàng rào. Thế rồi, chân đạp tán loạn lên những
gié kê đang phơi vương vãi, chàng tiến tới phủ phục trước
mặt người đàn bà. Trong khi chàng đang gục đầu xuống trước
bà, bức tượng Phật bản mệnh nắm trong bàn tay phải đã
va ngay vào giữa trán.
Người đàn bà biết
rằng đây không phải giống se sẻ nhưng là một con chim thật
lớn đã làm văng tung tóe món đồ đang phơi để sà xuống
trước mặt mình. Thế rồi bà mới ngừng hát và ngẩng đôi
mắt nay không còn phân biệt được gì nữa để nhìn đăm
đăm về trước mặt. Lúc đó đôi mắt đã se lại như đôi
vỏ sò khô hạn bỗng dưng ngập tràn nước. Người đàn bà
mở to đôi mắt giờ đây đang ràn rụa những lệ.
- Zushiô!
Tiếng kêu thoát ra
từ miệng của bà. Hai người ôm nhau thật chặt.
Dịch
xong ngày 4 tháng 11 năm 2019 (NNT)
Chú Thích:
[1]
- Địa điểm ngày nay là thị trấn
Naoezu thuộc tỉnh Niigata.
[2]
- Kuni no kami: chức quan cai trị ở
địa phương (kokushu, kokushi)
[3]
- Iwashiro là một địa danh vùng Đông
Bắc, ngày nay thuộc tỉnh Fukushima.
[4]
- Okoshigome : xôi rang với mật giống
như bánh cốm.
[5]
- Dayuu là một chữ khá khó dịch,
tương đương với "người đứng đầu" một ngành nghề. Trên
sân khấu, đó là người chủ gánh hát, trong trang viên, đó
là một người quản đốc, trong giới làng chơi, đó là một
hoa khôi. Vì Yamaoka làm nghề thuyền đò (funanori) xin tạm dịch
là "chủ thuyền"
[6]
- Cháo khoai (Imogayu) trong xã hội
cổ đại Nhật Bản không phải là món ăn của người nghèo
để thay cơm như ở Việt Nam.
[7]
- Một chô là 109m, vị chi khoảng
400m.
[8]
- Tsukushi là tên cổ của Kyuushuu.
Sở dĩ ở dây gọi như thế là bởi vì bối cảnh của câu
chuyện là thời Trung Cổ.
[9]
- Nguyên văn "Oya shirazu, ko shirazu"
(Mặc cha cha đi, mặc con con đi) nghĩa là mỗi người tự lo
thân nấy vì ai nấy đều phải tập trung tinh thần để khỏi
vấp ngã).
[10]
- Saikoku (Tây Quốc) tức phía Nam
nước Nhật và là chữ để chỉ những vùng đất phía Tây
Kyôto kể cả đảo Kyuushuu thực ra nằm ở phía Nam.
[11]
- Miru (lục tảo) là một loại rong
ngắn khoảng 20 cm, mọc bám trên đá và có màu xanh. Arame (hoang
bố) là một loại rong dài cả thước, mọc ở những chỗ
nước sâu và có màu nâu.
[12]
- Một hòn đảo nằm trong khu vực
tỉnh Niigata ngày nay, giữa biển Nhật Bản. Ngày xưa hoang
vu, chỉ có bọn phu mỏ và đánh cá cũng như tù tội sinh sống.
[13]
- Tỉ dụ nhà Phật: Để giúp tất
cả chúng sinh vượt qua khổ hải, chư bồ tát đã thề rằng
họ sẽ sắp sẵn một con thuyền qua bờ bên kia tức phương
tiện giúp mọi người đạt đến cảnh địa giác ngộ. Còn
Liên Hoa Phong Tự là tên ngôi chùa phái Chân Ngôn xây trên
đảo Sado.
[14]
- Con đường này được phủ một
lớp ván cho người đi nhưng có thể tháo ra làm đường cho
ngựa chạy.
[15]
- Ô-warawa (tóc xỏa, không búi giống
như mái tóc thiếu niên) vì việc đốn củi là công việc
của một nô lệ nam.
[16]
- Kokubuji hay Kokubunji (Quốc phân tự):
Hệ thống những ngôi chùa chính thức do nhà nước lập ra
ở các tỉnh để cầu an cho quốc gia và hoàng thất. Hệ thống
nầy đã được làm ra theo sắc chiếu của Thiên hoàng Shômu
– một người nổi tiếng sùng đạo - vào năm 741 và được
coi là những ngôi chùa bất khả xâm phạm.
[17]
- Risshi (Luật sư), chức thấp nhất
trong hệ thống các tăng quan của nhà nước nhưng cũng thuộc
hàng lãnh đạo, trông coi việc gìn giữ giới luật..
[18]
- Ngọn đèn tuy yếu nhưng không bao
giờ để cho tắt, đặt bên cạnh những nơi thờ Phật.
[19]
- Cà sa gọi là hensan (thiên sam) chỉ
che một bên vai như y phục của tăng khất thực.
[20]
- Tam y (San.e) hay ba loại pháp y gồm
có đại y, ngũ điều và thất điều cà sa. Điều là màu.
[21]
- Shujakuno: Cánh đồng từ cửa
Chu Tước trong kinh thành Heian trải ra hướng Tây.
[22]
- Ngôi đền ở con đường thứ 7
(Shichijô) trong kinh thành Heian.
[23]
- Kanpaku là chức quan đầu triều
chuyên việc chọn lọc tấu sớ để dang lên vua duyệt. Ngang
hàng với Tể tướng.
[24]
- Fujiwara no Morozane (Đằng Nguyên,
Sư Thực, 1042-1101), quí tộc họ Fujiwara, một đại thần có
thực lực, cực kỳ vinh hiển, từng giữ liên tục nhiều
trách vụ quan trọng của nhà nước như Kanpaku (Quan Bạch),
Daijô Daijin (Thái chính Đại Thần) trong triều Thiên hoàng
Shirakawa và làm đến Sesshô (Nhiếp Chính ) dưới thời Thiên
Hoàng Horikawa khi nhà vua còn thơ ấu. Ôgai đã dựa trên truyện
ký "Ngài Umezu-in (Mai Tân Viện) cất nhắc Zushiô" để viết
đoản thiên này. Chính ra, ngoài Morozane còn có một nhân vật
lịch sử khác cùng họ Fujiwara cũng có tôn hiệu là Umezu-in,
đó là Motozane (Cơ Thực). Tuy nhiên ông này chết vào năm 1166,
lúc mới 24 tuổi, chưa đủ tuổi để có một cô con gái lớn
hay cô cháu lớn nên không thể thể xem là nhân vật Kanpaku
xuất hiện trong câu chuyện.
[25]
- Iwashiro là một tiểu quốc vùng
Mutsu, nay thuộc tỉnh Fukushima.
[26]-
Tango là một vùng đất hướng bắc
Kyôto, phía biển Nhật Bản. Yura là tên một bến cảng.
[27]
- Takami-ô (Cao Kiến Vương)
là một tước vương dòng dõi Thiên hoàng Kanmu (Hoàn Vũ). Đến
đời con cháu Takami-ô, Thiên hoàng Uda (Vũ Đa) đã ban cho họ
họ Taira (Bình) khi những người này trở thành thứ dân (như
một dòng Tôn Thất bên ta).
[28]
- Zuryô (Thụ lĩnh), thời trung cổ,
là chức quan đầu tỉnh .
[29]
- Chế độ gọi là Yôju (Dao thụ)
hay cai quản từ xa. Người giữ chức (thụ lĩnh) vẫn sống
ở kinh đô nhưng ủy nhiệm một người khác trực tiếp cai
trị địa phương ấy thay mình và chỉ nhận cống vật.
Thư mục tham khảo:
-
Mori Ôgai, Tuyển Tập
Mori Ôgai, khổ bỏ túi, 1998, Nhà xuất bản Bunshun (Văn Nghệ
Xuân Thu), Tôkyô in lần thứ nhất, nguyên tác Nhật ngữ với
chú thích, từ trang 316 đến 353.
-
-Hình ảnh minh họa và
thông tin khác mượn từ mạng Internet.
|