Có lẽ tác phẩm
ghi chép cụ thể nhất về hoàn cảnh xã hội thời
Vãn Đường là Nittô guhô junrei kôki 入唐求法巡礼行記
(Nhập
Đường cầu pháp tuần lễ hành ký) của tăng Ennin 円仁
(Viên Nhân, 794-864). Dĩ nhiên ở
một đất nước lắm sách vở như Trung Quốc thì loại
ghi chép về thời Đường hãy còn lại rất nhiều.
Thế mà trong số đó, không có bản nào sánh kịp ký
sự du hành của Ennin, một người nước ngoài.
Nhà Nhật
Bản học Edwin O. Reischauer (1910-1990)
chuyên gia
về Ennin ở ĐH Harvard
Lý do là trong tác
phẩm mình viết, Ennin kể lại toàn những trải nghiệm
cá nhân nên nó mới có giá trị đặc biệt. Khi một
nhà sư từ ngoại quốc về, ông được lệnh bề trên
phải tường thuật những điều nghe thấy và còn phải
trả lời cho nhiều người chung quanh khi họ đặt câu hỏi
về trải nghiệm của bản thân ông. Có lẽ điều đó
đã khiến Ennin ghi chép thật tỉ mỉ. Nhiều chuyện đối
với người nhà Đường thì quá hiển nhiên, những
tưởng không có giá trị gì, thế mà ông cũng ghi chép
một cách chi tiết. Bởi vì yếu tố thời gian sẽ làm
cho những gì tưởng là hiển nhiên trở thành khó hiểu.
Ennin nhập Đường
năm Jôwa (Thừa Hòa) thứ 5 (838) dưới triều Thiên hoàng
Ninmyô (Nhân Minh, trị vì 833-850). Lúc đó, theo nguyên hiệu
của nhà Đường là năm Khai Thành thứ 3 đời vua Văn
Tông. Trên chuyến Khiển Đường Sứ năm Jôwa thứ 5 nói
trên, đồng thuyền với ông còn có nhà sư Ensai 円載
(Viên
Tái). Ennin lúc đó tròn 44 tuổi nhưng về Ensai, không
ai rõ ông đã bao nhiêu. Vì không biết năm sinh năm mất
của ông, ta chỉ có thể phỏng đoán. Chức danh của Ennin
là Shôyakusô 請益僧 (Thỉnh
ích tăng) (1),
còn Ensai chỉ là Gakumonshô 学問生
(Học
vấn sinh) (1)
Kẻ trước - như Ennin - là người đi tìm một ông thày
để giải tỏa những mối nghi ngờ trong học vấn và
phải sớm quay về nước nên còn được gọi là
Gengakushô 還学生 (Hoàn
học sinh) (1).
Như vậy, ông phải là một nhà sư đã có trình độ
cao, chỉ còn một chút ngờ vực trong lòng mà thôi. Còn
người sau - như Ensai - thì mục đích là lưu lại bên đó
một thời gian lâu hơn để học tập, do đó được gọi
là Rugakushô 留学生 (Lưu
học sinh) (1).
Nói nôm na thì Gengakushô có mục đích quan sát tại chỗ
để hoàn chỉnh kiến thức trong khi mục đích của Rugakushô
là học tập. Ensai như vậy phải là một người tương
đối trẻ. Trong cuộc Kentôshi 遣唐使
(Khiển
Đường Sứ) vào năm Enryaku (Diên Lịch, 804), tăng Saichô最澄
(Tối Trừng, 766 / 67 - 822) là Gengakushô
trong khi Kuukai 空海
(Không Hải,
774-835) là Rugakushô. Lúc đó, Saichô đã tròn 37, còn Kuukai
mới 30. Gọi là trẻ nhưng họ đều phải có kiến thức
vững vàng về Phật học. Ngay một thiên tài như Kuukai
mà lúc lên đường, tuổi cũng đã 30. Do đó, ta có
thể suy đoán mà không sợ nhầm lẫn lớn rằng Ensai
đã vào đất Đường năm ông khoảng 30 tuổi.
Ensai là một nhân
vật đáng chú ý. Lý do là kể từ ngày đó, không
ai rõ về hành trạng của ông. Riêng Ennin sau khi về nước,
ông đã trở thành vị tọa chủ đời thứ ba của chùa
Enryaku (Diên Lịch). Ông chính là Jikaku Daishi 慈覚大師
(Từ
Giác đại sư), là tổ sư phái Sanmon (Sơn môn, để phân
biệt với Jimonha (Tự môn), một nhánh Thiên Thai khác
bắt nguồn từ chùa Onjô 園城寺
(Viên
Thành) mà tăng Enchin 円珍
(Viên
Trân) là tổ, NNT). Về Ennin thì hành trạng và trứ tác
của ông, mọi người đều đã rõ. Trong khi ấy, vì Ensai
không trở về nước nên muốn biết tin tức, ta chỉ
có thể dựa vào vài mẩu chuyện rời rạc do các học
tăng có dịp sang bên nhà Đường kể lại.
Ennin và Ensai đi chung
thuyền qua bên ấy nhưng hoạt động trên đất Đường
của họ không có gì giống nhau. Sinh viên du học như Ensai
có thể lên thẳng núi Thiên Thai chứ tăng nhân nghiên cứu
như Ennin thì không được cấp giấy phép lên đó. Ennin
ở lại đất Đường ước chừng 10 năm và đã tả
lại rõ ràng sinh hoạt từng ngày một của mình trong
ký sự lữ hành nói trên. Khi Ennin về nước rồi, đến
lượt Enchin 円珍 (Viên Trân,
814-891) nhập Đường. Ông đã tiếp xúc được với
Ensai rồi cùng nhau đi Trường An. Tuy Enchin cũng ghi chép
về chuyến đi của mình nhưng thông tin không còn giữ
lại được bao nhiêu. Ký lục nói trên tên gọi là Gyôryakushô
行暦抄
(Hành lịch sao). Enchin sau đó trở
thành tọa chủ đời thứ 5 của chùa Enryaku và là ông
tổ của Jimonha (Tự Môn phái) với danh xưng Chishô Taishi智証大師
(Trí Chứng đại sư). Trong cuốn
Gyôryakushô vừa nhắc tới, ông đã không vẽ ra một hình
ảnh thơm tho tốt đẹp gì về Ensai.
Enchin kể rằng khi
từ Nhật qua gặp Ensai thì Ensai chỉ thường xuyên đặt
câu hỏi: "Sao, đem qua được bao nhiêu tiền ?". Hơn nữa,
vào năm Hội Xương thứ 2 (843), có hai lưu học sinh khác
là Enshuu 円修 (Viên Tu) và
Eun 恵運 (Huệ Vận) đã
cho biết: "Ai cũng nghe tin là Ensai có lần xâm phạm tiết
hạnh một ni cô". Ngoài ra, Enchin còn nhắc đến lời kể
lại của Hòa thượng Dôsen 道詮 (Đạo
Thuyên), theo đó thì học tăng Enshuu là người có lòng
tin sâu sắc, khi thấy Ensai hay trốn chùa đi chơi, đã khóc
rống lên và can gián:
-Nhà nước cấp
cơm áo cho anh, mọi người ai cũng chờ đợi anh học hành
thành tài về nước, trở lại chùa xưa (ý nói Enryaku)
để truyền bá đạo pháp. Cớ sao anh không chuyên cần
làm việc đó mà lại gây ra bao điều tội lỗi. Ơi
hỡi, ông xanh!
Ơi hỡi, ông xanh!
(Thương thương thiên thiên蒼蒼天天)
là tiếng kêu than mạnh mẽ nhất rồi. Thế nhưng, tác
giả còn cho biết chẳng những không nghe lời Enshuu can
gián, ngược lại, Ensai còn lấy đó làm hận, định
dùng người Shiragi新羅 (Tân
La, một nước trên bán đảo Triều Tiên, NNT) để đánh
thuốc độc nhưng lúc ấy Enshuu đã lên thuyền về nước
nên ông ta không thực hiện được âm mưu.
Năm Hội Xương thứ
3 (844) là lúc Ennin còn đang ở bên nhà Đường. Trong
tập ký sự lữ hành, vào mục tháng 12, ông cho biết
có nhận được lá thư của một người gửi đến
với mẩu tin:
A xà lê (Thày)
Ensai dâng biểu xin cho hai tăng sinh đệ tử được về
Nhật Bản.
Ở giai đoạn đó,
chính sách bài Phật của vua Vũ Tông đã thành một
cao trào, toàn thể Phật tử nhà Đường đang ở trong
một tình trạng căng thẳng. Ngay giữa lúc ấy, một nhà
sư từng xúc phạm đến ni cô trên núi Thiên Thai chẳng
những không bị trục xuất mà còn được yên thân thì
quả là chuyện kỳ lạ. Hai tăng sinh đệ tử của Ensai
tên là Ninkô 仁好 (Nhân Hảo)
và Junshô順昌 (Thuận Xương).
Họ đã theo chỉ thị của ông, mang được một số kinh
sách về Nhật.
Thêm vào đó, Ensai
đã nhận được lời giải đáp về 30 thắc mắc về
ý nghĩa tôn giáo từ tọa chủ Quảng Tu 広修của
chùa Quốc Thanh 国清thuộc
phái Thiên Thai và gửi về Nhật. Văn bản này gọi là
“Đường Quyết" 唐決 (Giải
đáp xác quyết từ nhà Đường) nó đã có ảnh hưởng
lớn lao đến giáo lý tông Thiên Thai của Nhật Bản. Qua
việc đó, thật khó lòng nghĩ rằng ông là người hay
trốn chùa đi chơi. Thực ra, Ennin cũng đã trình lên Hòa
thượng Chí Viễn志遠 ở
chùa Ngũ Đài Sơn ba mươi điều thắc mắc như vậy để
nhờ giải đáp nhưng vì đã có người làm rồi nên
họ không nhận nữa và ông đành ra về tay không. Có
thể phong cách của Thiên Thai và Ngũ Đài không hoàn toàn
giống nhau nhưng việc họ muốn ban bố lời giải đáp
hay không đều tùy thuộc vào sự đánh giá nhiệt tình
của người cầu đạo. Hiện nay ở Tôdaiji (Đông Đại
Tự), hãy còn truyền lại "Ngũ bách vấn luận" 五百問論
do
Ensai chép tay từ bên nhà Đường.
Chuyện tăng Ensai "phá
giới" chỉ đến từ lời đồn đại. Những chứng cứ
bằng hiện vật như "Đường Quyết", "Ngũ Bách Vấn
Luận" vv.. đều đã chứng minh rằng ông là một nhà
sư chuyên tâm cầu học.
Thực ra, cuộc tranh
giành ảnh hưởng bên trong phái Thiên Thai Nhật Bản cũng
gay cấn chẳng thua gì tục giới. Ví dụ chính cá nhân
Enchin – đệ tử của Gishin義真 (Nghĩa
Chân) – thì sau khi Gishin tạ thế, đã đối lập với
đám đệ tử ruột của Saichô (Tối Trừng) trong việc
thừa kế tông môn – đã phải đóng cửa tu hành không
hạ sơn (= lung sơn籠山 rôzan)
suốt 12 năm trời (2). Trong
cuộc tranh chấp này, đệ tử đàn em của ông là Enshuu円修
(Viên
Tu) đã bị trục xuất khỏi chùa.
Có thể việc về
nước lúc đó của Ensai sẽ gây nhiều khó khăn. Tiếng
tốt của ông cho dù được rao truyền đến Nhật chắc
cũng không làm ông vui chút nào. Ta có thể suy luận như
vậy mà không sợ lầm lẫn.
Năm Genkei nguyên niên
(877) dưới triều Thiên hoàng Yôsei (Dương Thành), Ensai
mới lên đường về nước và có đem theo vài ngàn
kinh sách. Giữa đường chẳng may gặp bão và chết đuối.
Ông đã lưu ngụ bên nhà Đường tất cả 40 năm. Giả
sử lúc vào đất Đường ông 30 tuổi thì khi định
về quê, ông đã là một lão tăng 70 rồi. Một nỗi
khổ nữa cho ông là không thể đặt chân lên cố quốc.
Tôi đã định bụng
thế nào cũng phải viết một cuốn tiểu thuyết về
ông nhưng vì không có thời giờ rảnh nên ý định đó
đành bỏ qua. Hồi đang chuẩn bị cho công việc đó, hình
ảnh Ensai mà tôi vẽ ra trong trí là một con người vô
cùng đáng yêu. Tuy lòng ông dạt dào tình cảm đối với
quê hương nhưng biết sự trở về của mình sẽ không
được những người khác hoan nghênh nên đành nán lại
đất Đường những 40 năm.
Khi đến 70 tuổi
và biết chắc chắn những kẻ thù địch không còn coi
mình là nhân vật nguy hiểm, ông mới tìm cách về nước.
Nhưng than ôi, con thuyền đưa ông đã chìm xuống đáy
biển sâu. Điều này quả là vô cùng đau xót.
Tôi đã trưng ra những
chứng cớ cụ thể cho thấy Ensai không hề là một ông
sư "phá giới". Thế nhưng hãy còn một số bằng chứng
nữa trong Đường thi mà tôi muốn trình bày ở đây.
Việc học tăng Abe
no Nakamaro安倍仲麻呂 (698-770)
tức nhà sư Chôkô晁衡 (Triều
Hành) khi lên đường về Nhật, Vương Duy 王維đã
làm thơ đưa tiễn là câu chuyện đã quá nổi tiếng.
Bài thơ của họ Vương được sao lục lại trong Tôshisen
唐詩選
(Đường Thi Tuyển), (tuyển tập
thơ Đường lưu hành ở Nhật từ đời Edo, NNT). Ngoài
ra còn có thơ Bao Cát (Kiết) 包佶
tống
biệt ông nữa. Theo phong tục Trung Quốc thì khi các Khiển
Đường sứ hoặc lưu học sinh trở về, người nước
ấy đều có thơ văn tặng đáp. Dĩ nhiên, nếu là người
không có tiếng thì tác phẩm sẽ không được lưu truyền.
Do đó chỉ thấy thơ Vương Duy và thơ Bao Cát (Kiết).
Tuy vậy, kể từ chuyến đi của Abe no Nakamaro về sau,
thơ tống tiễn người Nhật chỉ toàn là do các tăng
lữ chứ không ai khác. Giả Đảo 賈島 có
bài ngũ ngôn luật thi "Tống Trử Sơn Nhân Qui Nhật Bản"
nhưng đây là ngoại lệ duy nhất. Nhân vì "sơn nhân" có
nghĩa là người lánh đời nên cũng có xác suất người
được tặng thơ là kẻ đã xuất gia.
Nhìn vào Toàn Đường
Thi thì những tăng nhân được tặng thơ tống biệt mà
tên họ có ghi rõ ràng chỉ có Trí Tạng智蔵 và
Viên Nhân, mỗi người một bài.
Tác giả bài "Tống
Viên
Nhân Tam Tạng qui Nhật Bản" là một vị tăng tên Tê Bạch
栖白 (có thể đọc là Thê
Bạch). Ông từng sống ở chùa Tiến Phúc và giữ chức
Nội Cung Phụng. Thơ ông còn giữ lại được 16 bài. Tuy
ông là một vị tăng nổi tiếng nhưng khó có thể gọi
là nhà thơ hay. So với ông thì Bì Nhật Hưu 皮日休và
Lục Qui Mông陸亀蒙, hai người
từng tặng thơ tống biệt cho Ensai (mỗi người hai bài)
mới là những nhà thơ lớn của thời Vãn Đường.
Ngoài ra còn có một bài khác (thất ngôn luật thi) do
Nhan Huyên顔萱 nhưng không ai
rõ về tiểu sử của ông này.Toàn Đường Thi chỉ chép
lại 3 bài thơ của ông ta, trong đó một bài nhan đề
"Tống Viên Tái thượng nhân". Tuy không biết những bài
thơ tống biệt vừa kể có đủ sức gột rửa tiếng
nhơ cho Ensai (Viên Tái) hay không nhưng cũng xin trích dẫn
ra đây.
Trước tiên, đó
là thơ Bì Nhật Hưu. Bài thứ nhất có tên là "Tống
Viên Tái thượng nhân qui Nhật Bản":
Giảng điện đàm
dư trước tứ y,
講殿談餘著賜衣
Gia phàm khước
phản cựu thiền phi.
椰帆卻返旧禅扉
Bối đa chỉ
thượng kinh văn động,
貝多紙上経文動
Như ý bình trung
Phật trảo phi
如意瓶中佛爪飛
Cụ mẫu ảnh biên
trì giới túc,
颶母影邊持戒宿
Ba thần cung lý
thụ trai qui.
波神宮裏受斎帰
Gia sơn đáo nhật
tương hà nhập,
家山到日将何入
Bạch tượng tân
thu thập nhị vi.
白象新秋十二圍
(Ý: Sau những bài
thuyết pháp trên điện, thày được ban thưởng áo cà
sa màu tía nhưng đã nương theo cánh buồm lá cọ để
trở về mái chùa xưa. Trên giấy bối, kinh văn chuyển
động. Từ bình như ý, xá lợi Đức Phật muốn bay
lên. Chớp nháng, mây trời vần vũ báo tin bão tố sắp
nổi dậy nhưng thày kiên tâm trì giới. Bên trong cung điện
của thần sóng, thày vẫn không chểnh mảng việc chay
tịnh. Nhưng khi đến nước nhà rồi, không biết thày
sẽ đưa được gì về. Con voi trắng chở kinh cho thày
mùa thu này đã béo ra đến mười hai ôm).
Tứ y là chiếc áo
được ban tặng. Thường thì đối với giới tăng lữ,
đó là một chiếc áo cà sa màu tím, gọi là "tứ
tử"賜紫. Trong bài thơ Tê
Bạch tặng Ensai, ta thấy có chữ " tứ tử" này. Nếu
Ensai được liệt vào hàng tăng nhân nhận áo cà sa màu
tím như vậy ông phải là một vị cao tăng bởi vì không
phải người nào cũng có quyền mặc tử y. Vương Duy
trong bài "Tùng quân từ" 従軍辞có
câu: "Lai tấu quân môn trước tử y" 来奏軍門著紫衣
(muốn
nói rằng trong quân đội, vinh dự này dành cho người
có quân công, NNT).
Ở Ấn Độ, người
ta dùng lá cây cọ (thung lư, thông lư, 棕櫚 palm
tree), trải ra thật bằng rồi lấy kim khắc chữ, sau đó
đổ dầu lên cho đen đi. Các kinh điển của Phật cũng
được ghi chép lại theo lối ấy. Tuy có nghĩa là lá
(patra) nhưng khi ám tả sang chữ Hán thì thành "bối
đa la"貝多羅 (pa-to-ra).
"Như ý bình" vốn ám chỉ đồ chứa đựng bảo vật
để cúng dường và bảo vật quí hơn cả là xá lợi.
Xá lợi chính là di cốt của Đức Phật. Chữ này
thường được dùng theo nghĩa tượng trưng và tương
đương với Phật trảo hay "móng tay của Phật".
Hai chữ "bối đa
chỉ" 貝多紙 (giấy lá bối)
và "như ý bình" là một đối cú. Cách nói này diễn
tả được sự chuyên cần học tập kinh kệ và gắng
gổ tu hành của Ensai.
"Cụ mẫu ảnh" là
những tia chớp nháng báo hiệu cơn bão lớn sắp kéo
tới còn "Ba thần cung" tức cung điện của Long vương,
người tạo ra sóng gió. Tác giả khen Ensai trên đường
về đã không hề lơ là việc giữ trai giới để chống
trả ba đào trên biển cả. Tuy vậy, ông vẫn lo lắng không
biết bạn sẽ đặt chân lên cố hương Nhật Bản như thế
nào ? Lời tục thường ví von "áo gấm về làng" (ý
cẩm hồi hương). Đối với một tăng sĩ thì áo gấm
đó là kết quả của sự dùi mài học tập. Tác giả
đưa ra việc mang theo nhiều kinh sách về nước với mục
đích khen ngợi Ensai là người học rộng và đã giác
ngộ lẽ đạo. Điều đó được tượng trưng bằng hình
ảnh Phổ Hiền bồ tát cưỡi con bạch tượng sáu ngà
mà ông cho là rất phù hợp với cảnh ngộ của Ensai.
Đặc biệt là giữa mùa thu mới đến này, bạch tượng
ấy đã ăn uống no nê nên béo tốt, to đến 12 vi. Vi
圍đây
là một vòng tay ôm. Tưởng tượng ra ngày khải hoàn
của bạn sau 40 năm dùi mài tu tập, Bì Nhật Hưu khấn
nguyện để Ensai được như thế nhưng than ôi, nhà sư
vì sóng to gió lớn, đã không hề thấy lại quê hương.

Sau đây là bài thơ
thứ hai của họ Bì:
Linh đào vạn lý
tối Đông đầu,
霊涛萬里最東頭
Xạ Mã Đài
thâm
ngọc thự thu.
射馬臺深玉曙秋
Vô hạn thuộc thành
vi khỏa quốc,
無限属城為裸国
Kỷ đa phân giới
thị Tiên châu.
幾多分界是亶州
Thủ kinh hải để
khai long tạng,
取経海底開龍蔵
Tụng chú không
trung tán thẩn lâu.
誦咒空中散蜃楼
Bất nại thử
thời bần thả bệnh,
不奈此時貧且病
Thừa phu trực
dục bạn sư du.
乗桴直欲伴師遊
(Ý: Sóng cao đến
tận mây bủa suốt vạn dặm tận vùng Cực Đông. Ở
quê hương Yamatai của thày giờ đây chắc trời thu tươi
sáng lắm. Nghe nói muốn tới nơi gọi là Tiên châu đó,
phải qua bao nhiêu thành quách nước người trần truồng
và còn vượt nhiều ranh giới. Vì muốn có kinh nên
thầy xuống mở kho tàng của Long vương dưới đáy bể,
lại đọc thần chú xua sạch ảo ảnh (mirage) sinh ra trong
không trung. Nếu lúc ấy, không vì đau ốm và nghèo túng,
ta đã lên bè cùng vượt biển với thầy rồi).
Xạ Mã Đài
vốn được chú thích "tức kim vương thành dã" (nghĩa
là kinh đô nhà vua bây giờ) nhưng cách viết trên có
lẽ đến từ một kiểu đọc khác của Yamatai邪馬台
(Da
Mã Đài), tên nước Nhật thời cổ. Ensai lên đường
vào mùa thu. Trời lúc ấy bắt đầu lạnh và trong như
ngọc. Nơi ông trở về là một xứ sở kỳ quái lạ
lùng mà Ngụy Chí Nụy Nhân Truyện từng nói tới.
Ra khỏi nước có
vua đàn bà hơn bốn nghìn dặm thì đến nước người
trần truồng (khỏa quốc) rồi nước răng đen (hắc xỉ),
sau đó đi về hướng đông nam thì mới gặp nó...
Thấy rằng phải vượt
qua biết bao nhiêu là biên giới mới đến được Tiên
châu亶州, địa điểm nhắc
tới trong câu thơ của tác giả. Thế nhưng nếu đọc Ngụy
Chí Nụy Nhân Truyện, sẽ không thấy nơi nào gọi là
Tiên châu. Theo lời chú của Sử Ký, Tần Thủy Hoàng
Kỷ, dẫn Quát Địa Chí 括地志thì:
Tiên châu nằm giữa
biển Đông. Tần Thủy Hoàng sai Từ Phúc dẫn một đoàn
đồng nam đồng nữ ra ngoài biển tìm Tiên nhân遷人(hay
仙人).
Như vậy Tiên châu亶州
chắc
phải là Nhật Bản, một thuyết khác cho rằng tên ấy
ám chỉ Lưu Cầu. Dù sao, khi nói về giải đất Ensai
sắp trở về, Bì Nhật Hưu nào biết gì hơn ngoài chuyện
chép trong sách vở. Sau đó, ông đưa ra một hình ảnh
gây sốc là "thủ kinh hải để" (xuống đáy biển mò
kinh). Chúng ta biết Ensai đã chìm dưới đáy nước nên
cách biểu hiện bằng từ hoa này của ông thật đáng
kinh ngạc. Bì Nhật Hưu mô tả được nhiệt tình thỉnh
kinh của Ensai, ngay khi xuống đáy biển rồi vẫn còn
muốn lấy kinh mang về. Có lẽ tin Ensai ngộ nạn đã
đến tai Bì Nhật Hưu, còn nếu như điều ấy không
xảy ra thì ta thấy nhà thơ như đã đoán biết cái chết
của bạn, một điều khiến chúng ta cảm thấy rờn rợn.
Thời gian tiễn chân
Ensai , Bì Nhật Hưu đang sống trong cảnh nghèo nàn, bệnh
hoạn. Nhà Đường lúc ấy cũng dần đi đến chỗ suy
tàn. Sau khi Ensai rời đất Đường được 30 năm, triều
đại này đã bị tiêu diệt. Hai năm trước đó, Hoàng
Sào khởi binh như để hô ứng với cuộc nổi dậy
của Vương Tiên Chi. Hình như chỉ vài năm sau, chính Bì
Nhật Hưu cũng mắc kẹt trong thành Trường An vốn đang
ở dưới sự kiểm soát của Hoàng Sào, bị bắt rồi
bị giết. Nói "hình như" bởi vì giữa thời loạn lạc,
lấy ai đứng ra ghi lại những sự việc cỏn con như thế.
Sau khi nhà Đường diệt vong, Ngũ đại Thập quốc bắt
đầu. Nghe nói Bì Nhật Hưu có lúc lãnh chức Thái
Thường Bác Sĩ của nước Ngô Việt (Triết Giang), một
trong Thập quốc. Còn chuyện con ông, Bì Quang Nghiệp皮光業,
trở thành Tể tướng của Ngô Việt thì đã được
minh xác.
Nhất định là khi
tiễn đưa Ensai, nhà thơ họ Bì rất bi quan. Ông nhớ lại
câu nói của Khổng Tử chép trong Luận Ngữ.
Thầy dạy (Tử
viết): Nếu không hành đạo được thì ta sẽ thả bè
(thừa phu乗桴) mà nổi
trôi ngoài biển (phù hải). Lúc đó người có thể
theo ta là Do đó thôi chăng? (Luận Ngữ, Công Trị Trường).
Do là Trọng Do tức
Tử Lộ. Nơi không hành được đạo thì đúng là nói
về nhà Đường lúc bấy giờ. Ensai là kẻ đang lên
thuyền về nước. Tác giả có ý bảo nếu Khổng tử
muốn cùng với Tử Lộ đi "lưu vong" ngoài biển thì
nhà sư ơi, giờ đây tôi cũng xin theo anh lên thuyền ra
khơi mà thôi!
Không ai thân với
Bì Nhật Hưu hơn Lục Qui Mông. Ông Lục là một văn nhân
không ra làm quan, được biết nhiều như nhà nghiên cứu
canh nông. Thơ qua lại giữa ông và họ Bì được thu thập
trong "Tùng Lăng Xướng Họa Thi tập" 松陵唱和詩集.
Lúc tiễn đưa Ensai, Lục Qui Mông cũng có mặt và đã
họa lại bài thơ tống biệt thứ nhất của họ Bì.
Thơ nhan đề: "Trùng họa Tập Mỹ 襲美 (Tập
Mỹ là tên tự của Bì) Tống Viên Tái Thượng Nhân Qui
Nhật Bản Quốc" :
Lão tư Đông cực
cựu nham phi,
老思東極旧巖扉
Khước đãi thu
phong phiếm bạc quy.
卻待秋風泛舶帰
Hiểu phạn dương
ô đương thạch khánh,
暁梵陽烏當石磬
Dạ Thiền âm hỏa
chiếu điền y.
夜禅陰火照田衣
Kiến phiên kinh
luận đa doanh khiếp,
見翻経論多盈篋
Thân thực sam tùng
đại kỷ vi.
親植杉松大幾圍
Dao tưởng đáo
thì tư Ngụy khuyết,
遥想到時思魏闕
Chỉ ưng dao bái
vọng tà huy.
只応遥拝望斜輝
(Ý: Khi về già
tuy nhớ cánh cửa đá chùa xưa ở vùng Cực Đông nhưng
phải đợi khi gió thu nổi đưa đường, thày mới lên
thuyền con mà về quê cũ. Người như thày xưa nay luôn
tu hành chăm chỉ. Sáng kể từ lúc mặt trời mới mọc,
gióng khánh đá, cho đến tối, mặc cà sa tọa thiền
trong ánh lửa đêm leo lét. Xem kìa, kinh thày dịch chất
đầy cả rương và những cây tùng thày tự tay trồng
nay đã lớn hàng ôm. Về đến nơi, khi nhớ đất nước
này, từ bên đó chắc thầy chỉ có thể vái chào ánh
mặt trời lặn ở phương Tây thôi nhỉ)
"Hiểu phạn dương
ô" và "dạ Thiền âm hỏa" là một đối cú. Trong vầng
thái dương có một con quạ 3 chân, nhưng "dương ô" còn
có thể hiểu là thái dương. "Thạch khánh" tức khánh
bằng đá, một nhạc khí dùng trong chùa, còn "điền
y" là tấm áo cà sa thô sơ. Đối cú này hàm ý khen
ngợi Ensai là một nhà tu hành cần mẫn. Lúc ở bên
nhà Đường, từ lúc tờ mờ từ khi đánh vào khánh
đá cho đến lúc chiều về, ngồi tọa thiền dưới
ánh đèn leo lét (âm hỏa), lúc nào Ensai cũng chú tâm
tu học. Do đó kinh điển ông dịch được mới chất đầy
cả hòm rương (doanh khiếp). Ở lại đất ấy nhiều
năm, những cây thông cổ thụ (sam, tùng) chính tay ông trồng
nay đã to đến hàng ôm. Do đó, về đến quê hương chắc
nhiều khi thày sẽ nhớ đất Đường. "Khuyết" có nghĩa
là cánh cửa cung điện, còn vẻ trang nghiêm, nguy nga của
nó thì được diễn tả bằng chữ "Ngụy". Theo một cách
giảng nghĩa khác, "Ngụy khuyết" còn là nơi treo các pháp
lệnh, ám chỉ triều đình. Nhân vì Trung Quốc nằm ở
phía Tây của nước Nhật cho nên khi Ensai nhớ về đất
Đường, chắc chỉ nhìn được ánh trời chiều (tà
huy) mà thôi.
Lục Qui Mông còn một
bài thơ tống biệt nữa nhan đề "Văn Viên Tái thượng
nhân hiệp Nho thư kịp Thích điển qui Nhật Bản Quốc,
cánh nhất tuyệt (một bài tuyệt cú)":
Cửu lưu tam tạng
nhất thì khuynh,
九流三蔵一時傾
Vạn trục quang lăng
Bột Giải thanh.
萬軸光凌渤澥聲
Tùng thử di biên
Đông khứ hậu,
従此遺編東去後
Khước ưng hoang
ngoại hữu chư sinh.
卻応荒外有諸生
(Ý: Một thời
thày đã chuyên chú đến kinh điển nhà Phật và học
thuật chư gia. Ánh sáng hàng vạn quyển sách khiến thày
không sợ tiếng sóng dữ trên biển Bột Hải. Từ khi
tác phẩm thánh hiền để lại được thày chuyển về
Đông thì chắc nơi hoang dã ấy cũng sinh ra được nhiều
nhà trí thức)
"Cửu lưu" nghĩa là
chín ngành văn học nghệ thuật của Trung Quốc, còn "tam
tạng" ám chỉ ba tạng Kinh, Luật, Luận Phật giáo. Ông
(Ensai) có một thời đã yêu thích những ngành đó nên
đã mang Nho thư cùng với Phật điển về nước. Số
kinh sách đồ sộ ấy sẽ phát ra ánh sáng làm chùn
bước những ngọn sóng to trên biển Bột Giải (tức
Bột Hải) (2).
Di thư của thánh hiền khi được ông chuyển về Đông
sẽ làm cho chốn xa xôi hoang dã ấy (hoang ngoại) có được
nhiều người chữ nghĩa (chư sinh).
Người mà Ensai thân
nhất có lẽ là là Bì Nhật Hưu, còn như Lục Qui Mông
chắc ông chỉ quen biết trong chỗ xướng họa. Lục Qui
Mông thích canh nông tức là một ngành học thực tế,
chưa hẳn đã bị Phật giáo lôi cuốn. Chẳng qua là sau
khi được Bì Nhật Hưu cho biết lúc về nước, ngoài
kinh Phật, Ensai còn đem theo cả sách vở nhà Nho nên họ
Lục mới lấy làm cảm kích, nhân đó tặng thêm một
bài thơ thứ hai để nói lên tình cảm đặc biệt của
mình.
Bốn bài thơ nói
trên xin được dùng làm tư liệu minh họa hình ảnh Ensai.
Nếu như quí vị muốn tham khảo thêm cho bài viết này
thì hãy còn có bài thơ sau đây do Tê (Thê) Bạch viết
tặng Ennin (Viên Nhân):
Gia sơn lâm vãn
nhật,
家山臨晩日
Hải lộ tín qui
nhiêu.
海路信帰撓
Thụ diệt hồn
vô ngạn,
樹滅渾無岸
Phong sinh chỉ hữu
triều.
風生只有潮
Tuế cùng trình
vị tận,
歳窮程未盡
Thiên mạt quốc
nhưng dao.
天末国仍遥
Dĩ nhập Mân
vương mộng,
已入閩王夢
Hương hoa cảnh ngoại
ngao.
香花境外邀
(Ý: Quê nhà nằm
phía mặt trời chiều, đường trên biển chỉ còn biết
phó mặc mái chèo. Rặng cây không còn thấy nữa, mới
biết thuyền đã ra khỏi bờ. Chỉ có gió biển làm
cho sóng dậy. Năm đã hết mà đường còn xa. Cuối
đất rồi sao chưa tới quê nhà. Chắc đã nhập vào
trong giấc mộng của Mân vương(3)
mà mang hương hoa ngao du ở cõi ngoài).
Tokyo
ngày 2 tháng 3 năm 2018
NNT
Chú thích:
(1).
Đây là cách đọc cổ có tính lịch sử, khác với
lối đọc bây giờ.
(2).
Quốc gia độc lập xưa kia hùng cứ vùng ven biển Triều
Tiên và Bắc Trung Quốc, có liên hệ mật thiết với
Nhật nhưng nay đã mất.
(3).
Điển tích chưa nắm. Mân 閩 (909-945)
thường được hiểu như một nước trong Ngũ đại thập
quốc, ở vùng biển Phúc Kiến gần Đài Loan. Bị Nam
Đường diệt. Ngoài ra, hương hoa là thức để dâng lên
Đức Phật. Có thể ý tác giả lo lắng cho chuyến trở
về chắc đầy khó khăn trên biển của Ennin. Tiếc là
Chin Shun-Shin cũng không giảng nghĩa.
Thư mục tham khảo:
1. Chin Shun-Shin, 1989,
Tôshi Shinsen (Đường Thi Tân Tuyển), Shinchôsha xuất bản,
Tokyo.
2. Hình ảnh Internet.Cách
phiên âm cổ. Bây giơ phải đọc là Ryuugakusei.
3. Rôzan là chế
độ do Sai chô lập ra.
|