|
Vài
cái bánh hiếm, lạ...
*
* *
Nguyễn
Dư
|
|
Ai
bánh hiếm, bánh lạ, ra mà mua!
Mời
các bạn đi xem vài cái bánh hiếm, lạ của ngày xưa.
***
Bánh
khía tiền
 Tranh
Oger có chiếc Bánh trung thu trông chẳng thua gì cái bánh
dẻo "chất lượng cao" ngày nay. Bánh hình chữ nhật, trình
bày công phu. Đường nét chạm trổ như... "tây đen rạch mặt".
Bánh
được đặt tên là Bánh "khuy" tiền. Tên xa lạ, khó
hiểu.
Khuy
(chữ Hán, bộ Hô) nghĩa là thiếu, giảm bớt, thiệt hại.
Mấy nghĩa này không thích hợp với cái bánh.
Từ
đó suy ra rằng Khuy không phải là chữ Hán. Khuy
là chữ Nôm.
Tra
tìm trong sưu tập tranh thì thấy Khuy (chữ Nôm) là cái
khuy
áo. Nghĩa này cũng không dùng được cho tên bánh.
Chỉ
còn cách đọc trại âm từ Khuy. Trong số các từ có
âm đầu Kh (khay, khoa...) hay âm cuối Uy (tuỷ, huy...)
của tiếng Việt thì thấy:
Tự
điển Khai Trí Tiến Đức, vần Kh có chữ Khía:
Khía
là vạch, đường lõm xuống. Thí dụ: Cạnh đồng bạc
có khía.
Khía
là
đường rãnh nhỏ rạch trên bề mặt một vật (Hoàng Phê).
Ngắm
cái bánh thì thấy có rất nhiều khía nhỏ. Phía cạnh
(bề dày) cái bánh cũng có thể có nhiều khía, chỗ
các đường vòng tròn tiếp xúc nhau.
Nói
tóm lại, cái bánh có khía giống
cạnh đồng tiền
của
hồi đầu thế kỉ 20 (giống cả mấy đồng euro bằng
kim loại ngày nay!).
Tên
tranh là Bánh khía tiền.
Oger
gọi cái bánh này là gâteau riche. Có tiền nhất
định phải giàu?
Olivier
Tessier, Philippe Le Failler đọc tên tranh là Bánh Khoai tiền[1].
May, không phải là bánh khoái tiền.
Chữ
Khoai
được tranh Oger viết bằng chữ Dụ (hay Vu, bộ
Thảo) nghĩa là Khoai nước hay khoai lang. Không có chữ
Khoai
nào được viết bằng chữ
Khuy.
***
Bánh
Hoài sơn
 Tranh
Oger còn một cái Bánh trung thu khác, tên cũng khó hiểu
không thua gì Bánh khía tiền.
Bánh
được bó bằng giấy màu có hoa văn. Tên bánh chỉ có hai
chữ.
-
Chữ, tạm gọi là (X), được viết = (bộ Tâm+chữ Y).
-
Chữ Sơn.
Tra
tìm nhiều bộ Tự điển, Bảng tra chữ Nôm, không
thấy chữ (X).
Cho
đến một hôm, tình cờ... Eurêka!
Tìm
được chữ (X) trong hai cuốn sách của Vũ Văn Kính [2][3].
(X)
là chữ Hoài (bộ Tâm) viết tắt.
Tên
tranh là Bánh Hoài Sơn.
Hoài
sơn là khoai mài, dùng làm thuốc (Đào Duy Anh).
Củ
mài dùng làm thuốc hay làm thức ăn (Hoàng Phê).
Bánh
Hoài
Sơn là bánh làm bằng bột khoai mài (củ mài).
Olivier
Tessier, Philippe Le Failler cũng đọc tên bánh là Hoài Sơn.
(Sách
Những
cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi [4]
có cây Hoài sơn nhưng chữ Hán viết kèm bên cạnh lại
viết là Sơn Dược, một tên gọi khác của củ mài).
***
Bánh
bò
Năm
1943, E. Bergès dịch Bánh bò là "gâteau qui rampe".
Bò
như trẻ con ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò.
Bergès
giải thích rằng đặt tên là Bánh bò vì lúc đem hấp,
bột bánh có nhiều bong bóng nhỏ li ti (do phản ứng của levure,
men), nở lan ra, trông như đang bò lên thành khuôn. Lúc
ăn bánh, dùng dao cắt thành miếng nhỏ [5].
Từ
điển Hoàng Phê cũng định nghĩa tương tự như Bergès:
-
Bánh
bò là bánh làm bằng bột gạo tẻ ủ với đường và
men, khi hấp chín thì nở to, mềm và xốp (có loại đổ vào
chén, khi hấp thì bột nở, bò lên miệng chén, thành hình
ba cái tai).
Bánh
bò là một thứ quà bình dân, rẻ tiền. Bánh được người
bán cắt thành miếng, to hay nhỏ tuỳ theo túi tiền của khách.
Thuở
bé tôi thỉnh thoảng được ăn bánh bò. Bánh ngọt, mềm và
xốp. Nhưng chưa bao giờ được ăn bánh bò... đổ vào chén,
nở thành hình ba cái tai!
Có
đúng là vì bột bò mà bánh được gọi là bánh bò
hay không?
Xét
cho cùng thì cái bánh hay cục kẹo nào cũng muốn được vua
biết mặt, chúa biết tên. Nhưng phải Trông mặt đặt
tên mới dụ được khách qua đường.
Chẳng
hạn như
Kẹo kéo, khách hàng biết là cái khối kẹo
kia sẽ được kéo thành thanh nhỏ. Bánh cuốn,
người ăn biết rằng nhân được cuốn lại bên trong lớp
bánh. Bánh trôi, "Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non" (Hồ Xuân Hương, Bánh
trôi), viên bánh
trôi,nổi trong chén nước đường.
Còn
bánh
bò ?
Bột
bò
lén lút lên thành khuôn hay miệng chén lúc nào, người ăn
hoàn toàn không thấy, không biết. Đặt tên như vậy coi bộ
thiếu hấp dẫn, không phù hợp.
Có
thể nói Bánh bò không phải là bánh bò lê bò càng.
Nếu
vậy thì Bò từ đâu ra, nghĩa là gì?
Từ
điển Đào Duy Anh, Tự điển Thiều Chửu dịch chữ
Bào
(bộ Thuỷ) là bọt nước.
Cũng
chữ Bào (bộ Thuỷ) này, sách
Giúp đọc Nôm và Hán
Việt của Trần Văn Kiệm có thêm nhiều nghĩa:
Bong bóng,
Có
hình bong bóng, Mềm xốp, Không cứng[6].
Mấy
nghĩa trên đây đều đúng với cái bánh bò, từ lúc
bột được ủ men (có bong bóng), đến sau khi được hấp
chín (mềm xốp).
Có
thể khẳng định rằng từ Hán Việt Bào đã được
Việt hoá, đọc trại thành Bò.
Kết quả là ta có cái
bánh
bò ngọt, mềm xốp, ruột có nhiều bong bóng.
Bò
xong rồi, ai còn sức thì mời leo lên mái nhà ăn bánh...
***
Bánh
ngói
Năm
1903, ông Nguyễn Khắc Huề từ Bến Tre ra Hà Nội xem Đấu
Xảo, rồi tới Vĩnh Yên thăm bạn bè.
Ông
Huề tới Vĩnh Yên nhằm ngày có chợ phiên. Rất đông người.
Hàng hoá đại khái cũng như ở Hà Nội. Nhưng đặc biệt
là tại đây có
bánh ngói (gâteau tuile), mỏng như
tấm bìa các-tông, lớn chừng 10x15cm. Bánh được làm bằng
đất
sét, đem nung như nung gạch, ngói.
Bạn
ông Huề, cũng người miền Nam đang sống tại Vĩnh Yên, bảo
ông rằng bánh ăn được đấy! Ông Huề tò mò, bỏ
ra 2 xu mua một chục chiếc bánh.
Về
nhà bạn, ông Huề đem bánh ra ăn nhưng mới nhai miếng
đầu tiên ông vội nhè ra.
-
Ai lại ăn đất!
-
Ở đây người ta ăn. Anh cứ thử đem cho trẻ con thì sẽ
biết.
Ông
Huề đem bánh cho trẻ con, thấy chúng ăn ngon lành. Ông hỏi
xung quanh thì được biết trước kia bánh ngói dành cho
đàn bà có chửa (có bầu). Sau này, người không có chửa
và trẻ con cũng ăn [7].
Cái
bánh
ngói quái gở kia từ đâu ra? Sách xưa không ghi chép gì
về bánh ngói. Chúng ta chỉ biết rằng bánh được bán
tại Vĩnh Yên, năm 1903.
Năm
1884 triều đình nhà Nguyễn kí hoà ước công nhận quyền
bảo hộ của Pháp. Nhiều nơi nổi lên kháng chiến chống
Pháp.
Lính
Pháp (và lính Tập) phải đánh dẹp, có mặt khắp nơi.
Lúc
hành quân, lính Pháp được phát đồ ăn mang theo, trong đó
có bánh biscuit (bích quy).
Biscuit
là bánh được bỏ lò nướng chín hai lần (bis=hai lần,
cuit=nướng
chín), bánh cứng. Ngày xưa, biscuit là thức ăn dự phòng
của lính Pháp (Larousse).
Nhưng
biscuit
của
Pháp còn có nghĩa khác là đồ sứ, đồ sành không tráng men,
nung xong không nhẵn bóng, trông giống đá hoa cương (Larousse).
Có
thể trong lúc đùa giỡn, mấy ông lính Tây có ý xấu đã
chỉ bảo cho mấy bác lính Tập cách làm biscuit (bằng
đất sét) thành... bánh biscuit để ăn.
Đến
lượt mấy bác lính Tập "truyền nghề" làm bánh ngói
lại cho làng xóm.
***
Bánh
chưn
Cái
Bánh
chưn (chưn không có
g) của Tự vị Huỳnh
Tịnh Của là: Bánh vuông dẹp giống cái bàn chưn,
thủ nghĩa địa phương, cũng gọi là địa bỉnh.
Thật
bất ngờ được thấy trí tưởng tượng của Huỳnh Tịnh
Của.
Bàn
chân Giao Chỉ của dân ta thì đã biến mất từ lâu. Bàn
chưn vuông dẹp thì ngành khảo cổ đến nay vẫn
chưa tìm ra thuỷ tổ loài người nào có bàn chưn như vậy.
Bên
cạnh bánh chưn, Tự vị Huỳnh Tịnh Của còn có
thêm
Bánh chưng (Chưng nghĩa là nấu lâu, nấu cách
thuỷ).
-
Bánh chưng là bánh gói bằng nếp làm ra hình vuông vuông
cùng kêu là
địa bỉnh, hiểu nghĩa trời tròn đất
vuông, phải chưng hấp theo phép cho nên gọi là bánh
chưng.
Bánh
chưn và bánh chưng đều hình vuông, đều được
gọi là địa bỉnh theo nghĩa trời tròn, đất vuông.
Hoá ra hai cái bánh giống nhau. Hay chỉ là một?
Xin
phép được phạm thượng, phê bình Huỳnh Tịnh Của đã viết
tên bánh sai chính tả, nhầm lẫn chữ chưng (có g)
với chưn (không có g)!
Nhưng
Chưng
nghĩa là gì?
Sách
Lĩnh
Nam chích quái của Trần Thế Pháp kể rằng:
Bánh
chưng bánh giày có từ thời Hùng Vương.
Bánh
chưng hình vuông, tượng trưng cho đất, bánh giày hình tròn
tượng trưng cho trời.
1)
Chưng là biến âm (hay là âm cổ?) của chuông.
Tự
vị Huỳnh Tịnh Của định nghĩa Chuông là bốn phía
vuông vức bằng nhau.
Chuông
chắn (tiếng đôi): Vuông tượng.
Chuông
biền sắc cạnh: Cả biền cạnh đều vuông tượng sắc sảo.
(Thường nói về đồ mộc).
Đo
chuông: Đo lấy bề vuông vức.
Chuông
nhiễu: Một thước nhiễu đo vuông.
Một
chuông: Một khổ vuông vức, (nhiễu).
Tự
điển Génibrel cũng định nghĩa chuông là vuông (carré).
Một
thước chuông là un mètre carré.
2)
Giày
là biến âm của giời.
Phủ
Giày là nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh. Bà là đệ nhất Thánh
mẫu Thượng thiên, ngự trị cõi giời (trời).
Bánh
chưng, bánh giày tượng trưng cho Đất vuông, giời tròn.
(Viết
Phủ Dày, Bánh dày (dày mỏng) là nhầm lẫn, sai chính tả).
Thưa
cụ Huỳnh Tịnh Của, bánh Chưng không có nghĩa là bánh
được chưng hấp
theo phép.
Tiện
dịp nói thêm là ngày nay cũng nhầm lẫn chưng với chưn
(chân).
Tự
vị Huỳnh Tịnh Của có từ Chưng
(bộ Sách): Lấy
theo nghĩa chữ Nho thì là chứng ra hay là trưng tích.
Chưng
cổ là bày sự tích xưa.
Cầm
chưng là cầm lại mà làm chứng.
Thế
chưng là thế vì, giao cho làm chứng.
Tiền
thế chưng là tiền giao nạp cho được làm chứng vì việc
giao ước.
Ngày
nay, giới thương gia nhầm lẫn chữ chưng (có
g)
với chưn (không có g). Chưa hết, chưn lại
được sửa đổi thành chân.
Kết
quả là bây giờ mua bán, kí giao kèo phải đóng tiền thế
chân (thay cho tiền thế chưng). Chân này là...
chân giả! Đứng không vững. Vì vậy mà làm ăn thường bị
đổ bể!
***
Bánh
Hoa lang
Tự
điển Génibrel có Bánh hoa lang là: Gâteau,
Biscuit
de savoie.
(Gâteau
là
bánh làm bằng bột, bơ, đường, trứng. Biscuit là bánh
cứng, làm bằng bột, đường và trứng. Biscuit de savoie
là bánh "đặc sản" của vùng Savoie, nước Pháp).
 Tên
bánh Hoa lang từ đâu ra, mang ý nghĩa gì?
Đại
Việt sử ký toàn thư chép:
Năm
1663 (đời Lê Huyền Tôn), mùa đông tháng mười, cấm người
trong nước học đạo Hoa Lang. Trước đây có người
nước
Hoa Lang vào ở nước ta, lập ra đạo lạ lừa phỉnh dân
ngu, đàn ông đàn bà ngu dốt nhiều người tin mộ, chỗ nhà
giảng người ở hỗn tạp, trai gái không phân biệt. Trước
đã đuổi người giảng đạo đi rồi, mà sách và nơi giảng
hãy còn thói tệ chưa đổi. Đến đây lại nghiêm cấm.
(Chú
thích: Đạo Hoa Lang tức đạo Gia Tô, gọi thế vì
tôn giáo ấy đầu tiên do người Hoà Lan hay Hoa Lang
truyền vào nước ta) [8].
Việt
Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép:
-
Năm Nhâm Thìn (1712) đời vua Lê Dụ Tông, Trịnh Cương bắt
những người theo đạo Gia Tô phải cạo trán và khắc vào
mặt 4 chữ "học
Hoa Lan đạo".
Hoa
Lan tức là Hoà Lan (Hollande). Người Hòa Lan
sang buôn bán ở ngoài Bắc trước hết cả cho nên mới gọi
là đạo Hoà Lan. Vả lúc bấy giờ người Việt Nam ta
không phân biệt được những nước nào, hễ thấy người
Tây thì thường cứ gọi là Hoà Lan.
Việt
sử yếu của Hoàng Cao Khải lại đưa ra một tên khác:
-
Năm 1708 dương lịch (tức năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Hưng
Lê Hiển Tông), nhà vua hạ chiếu: tất cả những người nước
ta theo đạo Gia Tô đều phải thích bốn chữ "Học Hoà Lang
đạo" vào trán để làm nhục họ.
Năm
1714, đại phàm những giáo sĩ người Âu Châu cùng với người
nước ta làm giáo trưởng (tức linh mục trở lên), giáo đồ
(tức các con chiên) đều bị sát hại [9].
-
Sách Cochinchine française en 1878 của Pháp, có Trương Vĩnh
Ký trong ban biên tập, viết rõ rằng: Người Việt gọi các
nhà hàng hải Hollandais là người Hoa Lang[10].
(Sách
Kiên
biểu bí lục của Chử Học Giá nhà Thanh chép: cuối năm
Gia Tĩnh (1522-1566) triều Minh, Mã Đậu (Matteo Bicci, người
Ý) họp tập người đồng bạn đi tàu vượt biển du lịch
các nước gồm 6 năm, đến nước An Nam rồi vào địa giới
Quảng Đông
Theo
sách Dã Lục, thì ngày tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ nhất
(1533), đời Lê Trang Tông, người Tây dương tên là Y-nê-xu
(Ignatio) lén lút đến xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam
Chân và xã Trà Lũ huyện Giao Thuỷ (tỉnh Nam Định ngày nay),
ngấm ngầm truyền giáo về tả đạo Gia Tô) [11].
Nói
tóm lại, Hoa Lang, Hoa Lan, Hoà Lang hay Hoà Lan, tất cả đều
là ghi âm của từ Hollandais.
Trừ
một trường hợp!
Đỗ
Quang Chính trích dẫn một câu nói trong sách của Cristoforo
Borri, "Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam (Con nhỏ
muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng)", và giải thích:
-
Người thông ngôn đã dùng lầm những tiếng đó để hỏi
một người khác có muốn gia nhập đạo Công giáo không. Vì
thời ấy một số người hiểu lầm, gọi đạo Công giáo
là đạo Hoa Lang, mà đạo Hoa Lang có nghĩa là đạo Bồ Đào
Nha. Sở dĩ có danh từ Hoa Lang là vì, theo sự hiểu biết của
chúng tôi, khi người Bồ Đào Nha tới Đàng Trong bán một
thứ vải có in hoa giống như Hoa lang vì thế người
ta gọi những thương gia ấy là người Hoa Lang. Các nhà
truyền giáo đến Đàng Trong vào đầu thế kỷ 17 cũng bị
dân chúng gọi là người Hoa Lang, tức là người Bồ Đào
Nha, mặc dầu vào năm 1618 đã thấy những nhà truyền giáo
Nhật, Ý, Trung Hoa tới Đàng Trong.
Muon
bau dau christian chiam: Muốn vào đạo christiang chăng.
Vì thấy người ta hiểu lầm về đạo Công giáo, nên L.m (Linh
mục) Buzomi đã tìm được câu trên đây thay vào câu kia, để
hỏi người Việt mỗi khi họ muốn vào đạo Công giáo [12].
Giải
thích của Đỗ Quang Chính... gây thắc mắc cho người đọc:
-
Hoa lang (lang có g) là hoa gì? Hương sắc ra sao?
Có giống hoa trà (đếch thấy mùi thơm) Chu Mạnh Trinh
đem tặng Nguyễn Khuyến không? Thương gia Bồ Đào Nha nổi
tiếng nhờ một thứ vải in hoa lang?
-
Đỗ Quang Chính dựa vào một đoạn viết của Cristoforo Borri
để khẳng định rằng người Hoa Lang tức là người
Bồ
Đào Nha. Đạo Hoa Lang là đạo Bồ Đào Nha.
Xin
dịch lại đoạn viết của Borri (đã được Bonifacy dịch
sang tiếng Pháp):
-
Cha Buzome (hay Buzomi) được xem một gánh hát trình diễn
trước công chúng. Giữa buổi có một màn xen giúp vui. Một
anh hề, mặc quần áo giống người Bồ Đào Nha, được hoá
trang thành một lão bụng phệ, đằng sau lớp áo dấu một
đứa bé. Trước mặt khán giả, anh hề lôi đứa bé từ trong
bụng ra, hỏi nó có muốn chui lại vào trong bộ quần áo Bồ
Đào Nha không? Câu hỏi là:
Con
gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam (Con nhỏ muốn vào trong
lòng Hoa lang chăng?).
Câu
này ý nói: Bé con có muốn chui vào bụng người Bồ Đào Nha
này không? Đứa bé trả lời: Muốn. Rồi chui vào bụng người
Bồ Đào Nha. Chui vào rồi lại chui ra. Trò chơi cứ lặp đi
lặp lại nhiều lần như thế để cho khán giả cười.
Cha
Buzome nghe câu nói được nhắc đi nhắc lại này thấy giống
câu mấy ông thông ngôn dùng để hỏi người muốn vào đạo
Gia Tô hay không, mới hiểu được sự sai lầm của người
Đàng Trong tin rằng vào đạo Gia Tô là hết làm người Việt,
trở thành người Bồ Đào Nha như màn kịch kia (...).
Cha
Buzome bèn đổi câu nói trước kia thành:
Muon
bau dau Christiam chiam (Muốn vào đạo Christiang chăng)...[13].
Đoạn
văn trên không cho thấy "Hoa Lang nghĩa là người Bồ
Đào Nha. Đạo
Hoa Lang là đạo Bồ Đào Nha".
Anh
hề mặc bộ quần áo giống người Bồ Đào Nha, đã
gây hiểu lầm Hoa Lang tức là người Bồ Đào Nha. Nếu anh
hề mặc bộ quần áo Ý hay Tây Ban Nha thì Hoa Lang tức là
người Ý hay người Tây Ban Nha sao?
Hoa
Lang (Hollandais) là từ dùng để chỉ chung người
châu Âu, không có nghĩa đặc thù là Bồ Đào Nha.
Đạo
Hoa
Lang là đạo Gia Tô, không phải là đạo Bồ Đào Nha.
Trở
lại Bánh Hoa lang...
Có
thể hiểu theo hai cách :
-
Bánh
Hoa lang là bánh của người Hoa Lang, nói chung là của người
phương Tây, không chỉ rõ của nước nào.
-
Bánh
Hoa lang là bánh của đạo
Hoa Lang, tức là bánh thánh
hay bánh lễ của đạo Thiên Chúa.
Cha
Génibrel muốn nói đến một nghi lễ quan trọng của đạo
Thiên Chúa, lúc tín đồ được ăn bánh thánh Hoa Lang.
Nghĩa
thứ hai này dễ chấp nhận hơn nghĩa thứ nhất.
***
Bánh
Bông lan
Tự
điển Khai Trí (1971) có Bánh bông lan, là bánh bột
ngọt, hấp phồng xôm xốp theo hình bông lan. Bông
lan là bông hoa lan.
-
Lan là thứ cỏ quý có hoa thơm (Khai Trí Tiến Đức).
Xuân
lan thu cúc mặn mà cả hai (Kiều).
-
Lan là thứ cây cảnh, có nhiều loại, thân cỏ, lá thường
dài và hẹp, cánh hoa không đều, có loại có hương thơm (Hoàng
Phê).
-
Lan là cây to lớn, hoa thơm, như mộc lan, hoàng lan.
Hình
bông
lan ra sao, thật khó biết.
Bánh
bột ngọt, hấp phồng xôm xốp thì có nhiều thứ khác nhau.
Bánh
bông
lan là đặc sản của miền Nam. Điều này giúp chúng ta
đi tìm hiểu.
-
Theo ông Trần Văn Học là ông quan đàng cựu đời Gia Long
có công vẽ ra bản đồ Sài Gòn thời ấy (1815) thì Cầu
Bông, trước kia gọi là cầu Cao Mên sau đổi làm
cầu
Hoa (gọi làm vậy vì đây là hoa viên Lê Tả quân),
rồi vì huý tên một bà phi tần của đức Minh Mạng nên gọi
cầu
Bông cho đến ngày nay [14].
Thời
Minh Mạng, vì kị huý, Hoa được đổi thành Bông.
Lang
hay Lan, có g hay không g, người miền Nam phát
âm giống nhau. Hai chữ dễ bị viết sai chính tả.
Lan
có thể là Lang bị viết sai, mất g.
Bánh
Hoa
lang ngày xưa của Génibrel đã bị nhào nặn, biến đổi
thành bánh Bông lan ngày nay chăng?
***
Bánh
vẽ
Từ
điển Hoàng Phê định nghĩa:
-
Bánh vẽ là hình vẽ chiếc bánh; thường dùng để ví cái
trông có vẻ tốt đẹp; nhưng là cái không có thật, lừa
bịp.
Đói
ăn bánh vẽ, chiêm bao thấy vàng.
Bánh
vẽ của Hoàng Phê bị Nguyễn Công Hoan bác bỏ:
-
Bánh Vẽ không phải là bánh vẽ trên tờ giấy, mà là bánh
của làng Vẽ (Đông Ngạc) làm vào dịp Tết.
Bánh
tròn và to gần như quả pinh-pông, nhưng khi cho vào miệng,
thì bị nước bọt làm nhão ra, chỉ còn có một tí. Bánh
ấy cũng được gọi là "thu đa, nhập thiểu". Vậy khối to
của bánh là khối to giả dối [15].
Vào
những năm 1950-1954, dân Hà Nội hay dùng hai thành ngữ "cho
ăn bánh vẽ" (bị lừa), và "cho đi tàu bay giấy" (được nịnh
bợ, tâng bốc lên mây xanh). Hai thành ngữ này được dân
di cư mang vào Nam.
Nguyễn
Công Hoan kể một giai thoại:
Ngày
trước, gọi bánh mỳ (xin lỗi, chữ y... trông hơi gai
mắt!) là bánh tây. Trẻ con bán bánh tây rao ở đường: Ai
bánh tây ra mà mua.
Không
biết ai dạy, mà nhiều trẻ lại rao trẹo ra là: Ai đánh Tây
ra làm vua.
Năm
2012 vợ chồng tôi đi chơi, ghé thăm Nam Định. Tình cờ thấy
ngôi mộ Tú Xương nằm trong công viên. Đêm nghe tiếng ếch
bên tai, Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Sáng
sớm, giật mình nghe tiếng rao ngoài phố:
-
Bánh
mì Ba Lan nóng giòn ra mua!
Vật
đổi sao dời. Bánh tây bị hạ bệ. Bánh mì Ba Lan
lên thay thế!
***
Nói
đến bánh mì mới sực nhớ "ngày xửa ngày xưa" có làm "câu
đối" để tặng anh em trong nhà và bạn bè đây đó:
 Ba
thích ba-ghét,
 Cô
chửi cô-ca.
 (Bánh
mì baguette của Pháp, nước ngọt coca cola của
Mĩ)
Nguyễn
Dư
(Lyon,
10/2024)
[1]-
Olivier Tessier, Philippe Le Failler, Henri Oger, Technique du peupleAnnamite,
EFEO, 2009.
[2]-
Vũ Văn Kính,Bảng tra Chữ Nôm sau thế kỷ XVII, Hội
ngôn ngữ học Tp Hồ Chí Minh, 1994, tr. 178.
[3]-
Vũ Văn Kính,
Đại tự điển chữ Nôm, Văn Nghệ, 1998.
[4]-
Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam,
Thời Đại, 2011, tr. 848.
[5]-
E. Bergès, Chants et Cris de la rue à Saigon, P.A.F., 1980, tr.
29.
[6]-
Trần Văn Kiệm,
Giúp đọc Nôm và Hán Việt, Đà Nẵng,
2004, tr. 260.
[7]-
Nguyễn Khắc Huề, Notice sur le "Bánh ngói", BSEI, 1903,
tr. 65.
[8]-
Đại
Việt sử ký toàn thư, tập 4, Khoa Học Xã Hội, 1968, tr.
298, 364.
[9]-
Hoàng Cao Khải,Việt sử yếu, Nghệ An, 2007, tr. 374.
[10]-
Cochinchine
française en 1878, Challamel, 1878, tr. 241.
[11]-
Khâm
định Việt sử Thông giám Cương mục, tập 2,
Giáo
Dục, 1998, tr. 301.
[12]-
Đỗ Quang Chính,
Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Ra
Khơi, 1972, tr. 30-31.
[13]-
Bonifacy, Relation de la nouvelle Mission au Royaume de la Cochinchine,
BAVH, 7-12/1931, tr. 339-340.
[14]-
Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Xuân Thu tái bản,
tr. 169.
[15]-
Nguyễn Công Hoan, Nhớ và ghi về Hà Nội, Trẻ, 2004,
tr. 260.
|