Nhiều
người cho rằng tiếng Việt dễ nói, dễ học, dễ viết.
Có đúng như vậy không? Khó trả lời. So với nhiều tiếng
khác thì văn phạm tiếng Việt tương đối dễ, nhưng tiếng
Việt lại có nhiều cái khó khác như phương ngữ, cách phát
âm, nhất là có nhiều "nguyên tắc uyển chuyển". Lại còn
thêm mấy cái dấu hỏi, dấu ngã ngả nghiêng, quàng xiên lẫn
lộn... Rắc rối lắm.
Một thí dụ
vui vui là xui (động từ) của miền Bắc là xúi
của miền Nam. Xui (tính từ) của miền Nam lại là xúi
của miền Bắc. Quả mận, trái đào, ba miền đều có nhưng
đừng hấp tấp kẻo lại ông nói gà, bà nói vịt.
Trầu
của miền Trung, miền Nam là giầu của miền Bắc. Biết
rồi, khổ lắm, nói mãi. Ai cũng biết
trầu với giầu
là
một. Nhưng, mụ trầu của miền Trung, miền Nam có phải
là mụ giầu của miền Bắc không?
Mụ trầu
khác mụ giầu như ngày với đêm, như "con nhà lành"
với gái mại dâm!
***
Mời các bạn cùng
dòm ngó đời tư của mụ trầu và mụ giầu.
Mụ trầu
của
miền Nam...
Ngày xửa ngày
xưa, vào những năm 1920-1945, cô V.A. bỏ quê lên tỉnh. Cô
chọn cuộc sống bay nhảy, trác táng với giới thượng lưu
Sài Gòn. Khi thì với công tử bột này, lúc thì với đại
gia kia. Trúng mối thì về làm vợ quan lớn nọ. Bất kể là
Tây, ta, hay Tàu. Về già, bà V.A. qua sống bên Pháp. Viết hồi
kí.
"Nếu tôi cứ
ăn ở theo sách, cứ lấy chồng trong làng, cứ an phận tuỳ
duyên, củi lục làm ăn, gánh nước nấu cơm, giũ mùng giặt
áo, thì bất quá về già trở nên một mụ trầu, nếu
may mắn lắm, chồng là con thầy Cai tổng, thì nay lên mặt
bà xã, bà hương, tốt phước hơn nữa, ông cai có đất điền,
thì tôi sẽ nối giữ ruộng vườn, làm bà chủ điền (...).
Tột bậc đi nữa, chồng là học trò giỏi, thi đậu làm ông
này ông kia, lên đến tột phẩm nhơn thần trong này là đốc
phủ, chủ quận. Chi cho bằng trốn cha trốn mẹ, một khi sấn
bước giang hồ, thế mà được ăn sung mặc sướng, lên xe
xuống ngựa một lúc, nay chễm chệ trời Tây một ghế, hỏi
ai hơn ai?" (1).
Dựa theo ý
nghĩa đoạn văn thì có thể hiểu
mụ trầu là một
bà già miền Nam bỏm bẻm nhai trầu.
Sách Sài
Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển kể chuyện:
"Một cặp vợ
chồng chắp nối, vợ là tay "dọn bàn" tứ chiếng làm cho
Tây, chồng là tụi "nấu ăn" "ba rọi " của Pháp. Hai người
đụng nhau chung lưng làm nghề bán đồ lâm vố (do Pháp ngữ
rabiot
tức đồ dư) (...).
Dè đâu, cuộc
làm ăn vừa khá thì anh chồng biến chứng sanh sứa chuyện
nọ kia, mèo mỡ bê tha, bỏ gánh lại cho một mình chị vợ
đảm đương, cui cút. Tức quá, chị nghĩ ra câu hát như vầy
để tỏ tình:
Thượng thơ,
Phó soái, Thủ Ngữ treo cờ (hò lơ)
Bu-don (bouillon),
ỏm-lết (omelette), bí-tết (beefsteak), xạc-xây ờ (sacré).
Mũ-ni (menu)
đánh đạo, bây giờ mày bỏ tao ơ !(hớ hơ).
Thân làm một
mụ
già trầu, một chị bếp dốt nát, ngờ đâu khi tâm hồn
bị kích thích quá độ, lại sản xuất mấy câu bất hủ
làm vầy, vừa lâm ly thống thiết, vừa tế nhị, bình dân.
Đố ai sửa chữa hoặc thêm bớt được chữ nào?" (2).
Mụ trầu
còn được gọi là mụ già trầu. Hai bà là một.
Miền Trung có
bà
già trầu...
Bàn về ngôn
ngữ của người Quảng Nam, Hồ Trung Tú có nhận xét:
"Trường hợp
Trịnh Công Sơn cũng là một ví dụ hay để ta nhận ra lượng
vốn từ của người Quảng Nam. Nếu người Huế nói riêng
và cả khu 4 nói chung dùng những từ khá "điệu đàng" của
Trịnh Công Sơn một cách tự nhiên, dễ dàng với cả nhà
thơ, nhạc sĩ cho đến em bé quê, bà già trầu, nhưng
người Quảng Nam thì không hề biết đến như : xác xơ,
phôi phai (...)" (3).
Bà già trầu
miền Trung hay mụ trầu,
mụ già trầu miền Nam
chỉ là một. Một bà già có thú vui ăn trầu (trầu cau). Miền
Bắc không có mấy bà này. Nhưng lại có một bà khác là mụ
giầu.
Mụ giầu
của miền Bắc...
Mụ giầu
xuất hiện trong phóng sự Lục xì (1937) của Vũ Trọng
Phụng (4). Trong tiểu thuyết
Làm
đĩ (1937) Vũ Trọng Phụng viết là mụ giàu (5).
"Phía ngoài,
ngay chỗ cửa vào (của dispensaire, nhà chữa bệnh, ngày xưa
dân Hà Nội quen gọi là nhà Lục xì), độ chừng mười
ba bà mụ giầu đương chuyện trò ầm ĩ chung quanh người
gác cửa (...). Cứ trông đến thái độ khép nép rất có lễ
độ, luôn luôn sợ hãi của họ và cái màu đen nghiêm trang
đứng đắn của y phục họ, người không biết dám chắc
không ai tưởng họ làm cái nghề ghê gớm là nghề chủ nhà
thổ".
Mụ giầu,
mụ giàu hay mẹ giầu (Từ điển Gustave Hue,
1937) của miền Bắc là chủ nhà thổ (tiếng Pháp là tenancière
de maison publique, là proxénète).
Mụ giầu là Tú bà
tân thời, thời Pháp thuộc.
Phóng sự Lục
xì mổ xẻ, phơi bày đời sống của các cô gái mại dâm
mắc bệnh hoa liễu. Thế giới
Lục xì có nhiều nhân
vật có tên gọi mới lạ:
"Theo những
điều mách bảo đến tai tôi (lời ông Coppin) thì bọn mụ
giầu được quyền tính tiền rất cao và cách đi ăn mảnh
ấy; có lẽ do thế mà ở đây không có hạng đàn ông đỡ
đầu (souteneur) cho họ, cái hạng ma cô đặc biệt
trong tất cả mọi cách mại dâm mà ta thấy ở Tây phương".
"Muốn thủ
tiêu nạn mại dâm thì phải trừ bỏ những cái gì trở ngại
cho sự tự do của phụ nữ, đại khái như : đóng cửa
các nhà thanh lâu hoặc bất cứ những nơi nào gây ra truỵ
lạc ; bài trừ bọn người sống về nghề hoa nguyệt
(chủ săm, mụ giầu,
ma cô, bồi dắt
gái v.v...)".
Ma cô
là tiếng Pháp maquereau được Việt hoá, chỉ bọn đưa
dẫn gái điếm cho khách làng chơi để kiếm tiền.
Mụ giầu,
mụ
giàu hay mụ dầu (Từ điển Gustave Hue,
người miền Bắc phát âm lẫn lộn âm đầu gi và d.
Giầu
bị nhầm thành dầu) là người đàn bà đứng chủ nhà
đĩ, nhà thổ.
Tên giầu
từ đâu đến?
Tiếng Việt
miền Bắc có nhiều từ có âm đầu
gi tương đương
với âm tr của tiếng Việt miền Trung và miền Nam (thí
dụ: giầu cau-trầu cau, ông giời-ông trời, mặt giăng-mặt
trăng, gio bếp-tro bếp, giồng cây-trồng cây, giao việc-trao
việc, v.v...).
Vậy thì...
Mụ
giầu và mụ trầu là một người hay hai người khác
nhau? Câu hỏi rất hay. Câu trả lời phải thận trọng, vì
đụng tới vùng cấm... nhạy cảm!
Trước hết,
tiếng Việt có giầu sang (hay giàu sang) và giầu
cau (trầu cau). Hai giầu này không dính dáng gì với mụ
giầu.
Mụ trầu
(bà già ăn trầu) dứt khoát không phải là mụ giầu (chủ
nhà thổ). Chữ nghĩa sai một li đi một dặm!
Gốc gác của
mụ
giầu Tú bà ra sao? Mụ là người đàn bà (thí dụ:
chùa Thiên mụ, bà mụ đỡ đẻ...).
Mụ của miền Bắc
thường được dùng với ý coi thường (thí dụ: mụ hàng
xóm, con mụ hàng cá...). Còn
giầu?
Mọi người
đều biết rằng "chồng" mụ giầu là thằng ma cô
(maquereau). Cần phải xem qua lí lịch của thằng ma
cô.
Maquereau
của tiếng Pháp có 2 nghĩa:
1- một loại
cá biển, lưng màu xám xanh, có nhiều vệt đen.
2- là biến
âm của từ makalâre, tiếng Hoà Lan, có nghĩa là courtier
(người môi giới). Maquereau được dùng như một tiếng
lóng, để chỉ kẻ làm môi giới, dẫn gái điếm cho khách
làng chơi.
(Thông thường
thì sách báo, văn chương dùng từ proxénète hay souteneur).
Maquereau,
nghĩa thứ hai, được người Việt nói trại thành ma cô.
Có cô thì phải có cậu cho cân xứng. Giới bình dân bèn nhào
nặn thằng ma cô tạo ra thêm thằng ma cậu. Ma
cậu vặn vẹo một hồi thành ma cạo. Ba con ma
ăn bám đĩ điếm.
Còn "vợ" thằng
ma
cô?
Người đàn
bà làm nghề chứa hay dẫn gái mại dâm tiếng Pháp là maquerelle
hay
mère
maquerelle. Nhưng tiếng Việt không dịch là
mẹ ma cô
hay mụ ma cô. Người tạo từ cho tiếng Việt thời xưa
đã dịch (cá) maquereau là (cá)
tràu.
(Lê Khả Kế
dịch maquereau là cá thu. Có người dịch là cá ngừ,
cá song).
Cá tràu
là thứ cá nước ngọt, tròn mình, mà nhỏ con (Tự vị
Huỳnh Tịnh Của).
Theo Trần Văn
Thông, Giám đốc trường Hậu bổ (1908), thì cá tràu bông
của tiếng Trung kỳ, là
cá chuối của tiếng Bắc kỳ (6).
Từ điển
Hoàng Phê định nghĩa cá tràu (phương ngữ) là cá quả
(hay cá chuối). Tự điển Khai Trí viết sai: "Tràu: miền
Nam gọi là cá lóc, miền Bắc gọi là cá tràu". Miền Bắc
không có cá tràu.
Truyện Trê
Cóc có cá Triều Đẩu:
  Xa
nghe Triều Đẩu anh hùng
  Đưa
tin hoàng tước hỏi cùng phải chăng.
Triều Đẩu
được chú thích là cá quả (7).
Nguyễn Nghĩa
Dân sưu tầm được nhiều bài đồng dao trong đó có con cá
tràu:
- Cá biển,
cá đồng
Cá song, cá
ruộng
Dân yêu dân
chuộng
Là cá tràu
ổ
- Ru hồ ru hột
Cơm sốt, cá
nhảy lờn bơn
Cá sơn, cá
liệt
Cá giếc, cá
tràu...
- Bạo lặn
bạo lội
Con cá tràu
đô
Ăn nói hồ
đồ
Là cá óc nóc
- Một bài đồng
dao khác của miền Trung (có nhiều phương ngữ như con nghịt
(con vịt), trôốc (đầu), nôốc (thuyền), côi trời (trên
trời), chấm dứt bằng mấy câu:
- Tổ ong trong
nhà
Cai đà (kì
đà) ngoài nương
Chàng cương
(ễnh ương) dưới bàu
Cá tràu
trong hang...
Nguyễn Nghĩa
Dân cho biết: cá tràu của miền Trung là cá lóc của miền
Nam hay cá quả của miền Bắc (8).
Tự vị Huỳnh
Tịnh Của viết chữ nôm
Tràu (cá tràu, cá tràu đô)
bằng chữ Hán Triều. (Từ điển Génibrel viết
Tràu
=
Ngư
+ Triệu).
Nói tóm lại:
Maquereau
là thằng ma cô, đồng âm với maquereau là con cá
tràu. Maquerelle là "vợ" thằng ma cô, được
dịch sang tiếng Việt theo nghĩa là "con cá tràu cái", nôm na
là mụ tràu. Mụ tràu
là người đàn bà làm nghề dẫn
gái.
Mụ tràu
tổng hợp cả hai nghĩa của từ
maquereau.
Kết quả nghiên
cứu của Lý Tùng Hiếu cho biết có nhiều từ tiếng Việt
Trung bộ và tiếng Việt Nam bộ có gốc Chăm như: cù lao (palao),
cà rá (karah), ghe (ke), cái lu (plu), mụ (muk), ôông (ông)
v.v. (9).
Mụ là
từ có gốc Chăm. Cá tràu là cá của miền Nam (Huỳnh
Tịnh Của) và miền Trung (Trần Văn Thông). Do đó, có thể
nói được rằng Mụ tràu là phương ngữ của "đàng
trong". Mụ tràu ra đời dưới thời Pháp thuộc. Sớm
nhất phải là tại Sài Gòn. Khi ra tới miền Bắc thì mụ
tràu trở thành mụ giầu, hay
mụ giàu và được
Vũ Trọng Phụng đưa vào văn học, được Gustave Hue đưa vào
từ điển (bà giầu,
mẹ giầu, mụ dầu).
Đúng ra thì
phải gọi là mụ giàu vì
tràu chuyển thành giàu
đúng hơn là giầu.
***
Ma cô, mụ
giàu, gái mại dâm, nước nào cũng có, thời nào cũng có.
Một số nước
cho bọn này hoạt động công khai, miễn là đóng thuế cho
đầy đủ. Có cửa hàng đàng hoàng. Khách làng chơi thoải
mái chọn món đồ bày trong tủ kính. Có nước chọn giải
pháp né tránh, một mặt cho gái điếm hoạt động, đóng thuế,
nhưng mặt khác lại tìm cách phạt khách hàng của các cô.
Có nước ngầm cho phép "cái nghề xưa nhất của loài người"
làm ăn trong bóng tối. Vừa xoa dịu được cơn bệnh "hot"
của xã hội, vừa nắm đằng chuôi, muốn lùng bố lúc nào
cũng được. Bên ngoài vẫn bảo vệ được cái vỏ truyền
thống đạo đức.
Ma cô,
mụ
giàu ngày nay hầu như chẳng còn ai nói đến. Chết hết
rồi sao? Hết sao được. Chỉ đổi tên thôi.
Nguyễn Dư
(Lyon, 10/2019)
(1)- Vương Hồng Sển,
Sài
Gòn tạp pín lù, Văn Hoá, 1997, tr. 12.
(2)- Vương Hồng
Sển, Sài Gòn năm xưa, Xuân Thu tái bản, tr. 108.
(3)- Hồ Trung Tú,
Có
500 năm như thế, NXB Đà Nẵng, 2016, tr. 174.
(4)- Vũ Trọng Phụng,
Lục
xì, Văn Học, 2004, tr. 113, 183.
(5)- Vũ Trọng Phụng,
Làm
đĩ, Hội Nhà Văn, 2006, tr. 24-27.
(6)- Trần Văn Thông,
Ấu
học quốc ngữ tân thư, IDEO, 1908.
(7)- Truyện ngụ
ngôn Việt Nam, Văn Học, 1986, tr. 18.
(8)- Nguyễn Nghĩa
Dân, Đồng dao Việt Nam, Văn Hoá Thông Tin, 2005.
(9)- Lý Tùng Hiếu,
Ngôn
ngữ Văn Hoá vùng đất Sài Gòn và Nam bộ,
NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh, 2012, tr. 62-67.
|