 Kèm
nhèm quốc ngữ, lang sa
 Nôm
na mờ tỏ, nhẩn nha kiếm tìm…
Mời
các bạn dạo chơi vườn hoa Văn học dân gian Việt Nam, cùng
đi tìm đạo Phật trong đời sống của người xưa.
***
I-Đạo
Phật trong tục ngữ, ca dao.
Thời
nào cũng vậy, mối lo lớn nhất của dân ta là "miếng cơm,
manh áo" hàng ngày.
 Có
thực mới vực được đạo
 Đói
ăn vụng, túng làm càn
Có
miếng ăn, no bụng rồi mới nói đến chuyện tôn giáo, tín
ngưỡng xa vời.
 No
nên Bụt, đói nên ma
Dân
gian Việt Nam có ông Bụt (tiếng Phạn là Bu-Đa, tiếng
Hán là
Phật). Ông Bụt hiền lành, độ lượng, giúp
đỡ mọi người. Có cơm ăn áo mặc mới hi vọng trở thành
người tốt như Bụt. Đói rét thì dễ trở thành lưu manh,
bất lương.
Trong
thôn xóm, ai ăn ở hiền lành, không chửi bới, đâm chém nhau
thì được khen là Hiền như Bụt.
Tôn
ti trật tự của xã hội phong kiến được đạo Khổng an
bài. Trên là nhà vua, dưới vua là các quan, dưới các quan
là toàn dân.
Quan
lại là những người chuyên dùi mài kinh sử, thi đỗ.
Đỗ
cao thì được làm quan to. Một người làm quan cả họ được
nhờ. Cuộc sống bắt đầu khấm khá.
Ai
đi thi không đỗ thì tiếp tục dùi mài thêm. Thêm
mãi vẫn không được thì đành phải bỏ dở, quay ra sống
với cái vốn chữ nghĩa của mình. Làm thầy đám dân quê.
Thầy bói, thầy thuốc hay thầy cúng.
Quyền
lực của vua không có giới hạn. Cho sống được sống, bắt
chết phải chết. Tất cả đất nước là của vua! Tất cả…
trừ ngôi chùa của làng.
 Đất
vua, chùa làng, phong cảnh bụt
Vua
làm gì kệ vua nhưng không được đụng đến ngôi chùa thờ
Phật của dân làng.
Ngoài
ngôi chùa ra, phong cảnh xung quanh là của tất cả mọi người.
Chả ai mang được phong cảnh về làm của riêng. Của vua hay
của bất cứ ai thì cũng như nhau.
Phong
cảnh là của Bụt.
Tả
cảnh chùa Hương, Chu Mạnh Trinh cũng bắt đầu bằng Bầu
trời cảnh Bụt…
Ông
Bụt phù hộ, cứu giúp tất cả mọi người. Cái gì của
Bụt cũng được coi như là của tất cả mọi người
Ông
Bụt còn được dân gian đồng hoá với ông tiên trong truyện
cổ tích.
Thời
kì chiến tranh, loạn lạc thì xã hội đảo điên.
Sách
Thánh
Tông di thảo có Truyện hai Phật cãi nhau:
Sau
trận lụt, tại ngôi chùa kia có hai tượng Phật bằng đất
và bằng gỗ tranh cãi, chê trách nhau. Thấy vậy Phật Thích
Ca tay xách bầu rượu, dáng say lảo đảo, bước ra mắng
cả hai chỉ biết giữ cái hình hài bằng gỗ đất, ngồi
hưởng rượu thịt của dân chúng(1).
Phật
Thích Ca say rượu, mắng Phật đất, Phật gỗ. Đạo Phật
lảo
đảo nhiều lắm rồi.
Xã
hội Hỗn quân hỗn quan. Quan lại, nhà chùa không
còn nghiêm túc như trước kia.
Dân
làng coi thường sư tăng. Gần chùa gọi Bụt bằng anh.
Bây
giờ người ta rủ nhau…
 Vào
chùa trải chiếu ra ngồi,
 Tay
đàn, miệng lí, chúng tôi lên chùa
Chùa
là nơi thờ Phật, nay trở thành chốn hẹn hò, vui chơi, đàn
hát. Chùa bây giờ thờ thêm nhiều vị khác để chiều lòng
khách thập phương:
 Lên
chùa lạy Phật Thích Ca
 Lạy
ông Tam Thế vua cha Ngọc Hoàng…
Người
ta phê bình, chỉ trích bóng gió…
 Ăn
trộm ăn cướp, thành Phật thành tiên
 Đi
chùa đi chiền, bán thân bất toại
Người
ta xì xào khuyên nhau Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với
ma mặc áo giấy. Phải đề phòng hạng người Khẩu
Phật, tâm xà.
Nhưng,
thời kì đen tối nhất, bế tắc nhất của đạo Phật là
thời Pháp thuộc.
Trước
kia, đạo Phật chỉ bị đạo Khổng, đạo Lão lấn át. Bây
giờ, cả ba đạo Phật, Khổng, Lão đều bị đạo Thiên Chúa
tìm cách đẩy ra bên lề xã hội. Đạo Phật bị lâm vào
cảnh Ba thằng đánh một, chả chột cũng què.
Có
rất nhiều bài ca chế giễu đức hạnh của nhà sư:
 Mồng
một sư lên chơi chùa
 Có
cô yếm đỏ bỏ bùa cho sư
 Sư
về sư ốm tương tư
 Ốm
lăn ốm lóc cho sư trụi đầu.
Không
có lửa, sao có khói! (dịch câu Il n’y a pas de fumée
sans feu). Bụt trên toà gà nào dám mổ mắt!
Trẻ
con cũng a dua theo người lớn, ê a:
 -
Nam mô Bồ tát, bồ hòn
 Ông
sư bà vãi cuộn tròn với nhau
Nhiều
câu hát mới, thời thượng được tung ra:
 -
Lỗ
miệng thì nói Na mô
 Trong
lòng thì đựng ba bồ dao găm
(Rút
gọn lại thành
Miệng Nam mô, bụng bồ dao găm)
Dao
găm là poignard của lính Pháp. Poignard được
đựng trong một chiếc gaine bằng da, luồn vào thắt
lưng quần.
Găm
là biến âm của gaine. Oger gọi
là dao lưng (dao đeo luồn vào thắt lưng quần) (2).
Vũ
Ngọc Phan sưu tầm được mấy câu có “tư tưởng chống
mê tín của nhân dân"
 Con
chim ăn quả bồ nu
 Ai
làm nên nỗi, thầy tu đeo xiềng?
 -
Thầy tu ăn nói cà riềng,
 Em
thưa quan cả đóng xiềng thầy tu(3).
Nước
ta không có quả bồ nu. Chỉ có Nu (phương
ngữ miền Trung) là màu nâu. Cà riềng (phương ngữ miền
Nam) là nói lai nhai, lần khân vẻ như muốn gây chuyện (4).
(Cà
riềng có thể là biến âm của caresser của tiếng
Pháp. Caresser là mân mê, mơn trớn, tán tỉnh ngon ngọt).
Bài
dân ca của miền Trung hay miền Nam kể chuyện một thầy
tu đi tán gái, bị xiềng chân. Tán gái bị phạt
nặng như vậy sao? Thầy tu là ai? Bồ nu là quả gì? Khó trả
lời.
Rất
may, sách 6 truyện - thơ nôm đầu thế kỷ XX , chương
Quốc
phong đệ nhất thi, được khắc in năm 1930, tại Hà Nội,
cũng kể chuyện này (bằng chữ nôm):
 Con
chim ăn quả bồ nâu
 Ai
làm nên nỗi thầy tu mang xiềng
 Thầy
tu ăn nói nhà riêng
 Em
thưa quan lớn đóng xiềng thầy tu(5)
Bồ
nu bây giờ là bồ nâu. Cà riềng là nhà
riêng.
Bồ
nâu và
nhà riêng… cũng hơi khó hiểu. Tác giả muốn
nói gì?
Phải
nhờ… chữ nôm giải thích giùm!
1)
Chữ Bồ (bồ nâu) viết giống chữ Bồ
của tên nước
Bồ Đào Nha.
Bác
sĩ Hocquard kể rằng năm 1884 ông tới thăm linh mục Girod tại
địa phận truyền giáo Nam Định. Thời đó, Bắc kì không
có rượu đỏ (ngày nay gọi là rượu vang, rượu chát). Nho
thì chỉ có nho mọc hoang, quả chua, mùi vị không ra gì. Hàng
năm, có người gửi rượu đỏ từ Hồng Kông sang để linh
mục dùng làm lễ (vin de messe).
Tại
Kẻ Sở, giám mục Puginier có cho trồng thử lúa mì và nho
mang giống từ Âu châu sang. Lúa mì mọc khá tốt nhưng nho
thì chỉ cho ra toàn quả tồi (6).
Chữ
Hán gọi quả nho là bồ hay bồ đào (Đào Duy Anh,
Thiều Chửu).
Quả
nho, rượu nho (rượu đỏ) đã được các nhà truyền giáo
và lái buôn người Bồ Đào Nha mang vào nước Tàu và được
đặt tên là bồ hay bồ đào (quả của nước Bồ Đào
Nha) chăng?
Nhưng,
trong bài thơ Lương Châu từ của Vương Hàn (thời Đường,
thế kỉ VIII-IX) đã có câu Bồ-đào mỹ tửu dạ quang bôi
(Rượu bồ rót chén dạ quang). Nguyễn Hiến Lê chú thích "rượu
bồ-đào là rượu nho, chỉ Tây-vực mới có" (7).
Nếu câu thơ đúng là của Vương Hàn thì quả bồ đãcó
từ trước khi người Bồ Đào Nha đến nước Tàu.
Quả
bồ
thời
Đường và quả bồ thời Pháp thuộc là một hay khác
nhau nhưng trùng tên?
Dù
sao thì văn học dân gian Việt Nam cũng đã bắt chước Tàu,
gọi quả
nho là quả bồ. Quả bồ nâu (hay
bồ
nu) là quả nho màu nâu (màu đỏ sậm ngả sang tím
đen).
2)
Thầy
tu mang xiềng.
Thời
Pháp thuộc, người tu theo đạo Thiên Chúa (Gia Tô, Cơ Đốc)
được gọi là thầy dòng. Tu theo đạo Phật là thầy tu hay
nhà sư. "Tu" theo đạo Lão biến thể là thầy pháp, thầy cúng
v.v.
Xiềng
hay
xích là biến âm của chaîne của tiếng Pháp.
Thầy
tu mang xiềng là một nhà sư bị phạt, bị xích chân, thời
Pháp thuộc.
3)
Ăn
nói nhà riêng.
Nhà
sư bị phạt vì tội gì? Tội Ăn nói nhà riêng. Tội
gì mà lạ vậy?
Thời
Pháp, đạo Thiên Chúa được ưu đãi. Nhà cầm quyền chịu
sự chi phối của nhà thờ.
Nhà thờ Thiên
Chúa giáo được các con chiên gọi là nhà chung (nhà của chung
mọi người). Chống đối, làm ngược lại nhà chung
là nhà riêng. Chơi chữ khá thâm thuý.
Nếu
nhà thờ (nhà chung) được xã hội đương thời xem như tượng
trưng cho cái hay, cái đúng thì đương nhiên nhà riêng (trái
ngược với nhà chung) phải bị xem là tượng trưng cho cái
dở, cái sai.
Nhà
sư phạm tội ăn nói sai, chống đối lại nhà thờ, bị phạt
đóng xiềng.
Thời
Pháp cai trị, không có quan lớn nào dám đụng vào thầy dòng,
nhà chung.
Em thưa quan lớn đóng xiềng thầy tu, chắc
chắn thầy tu này là một nhà sư.
Bài
ca của miền Trung hay miền Nam gieo vần (nu, tu) hay hơn bài
của miền Bắc. Ý nghĩa hai bài hơi khác nhau. Một đằng nhà
sư phạm tội tán gái, một đằng phạm tội chống đối đạo
Thiên Chúa. Tuỳ hoàn cảnh, cô gái là dân thường hay là "chỉ
điểm" cho Pháp!
Tôn
ti trật tự cũ của Việt Nam bị thực dân Pháp xoá bỏ.
Nhiều
người bỏ đạo Phật, bỏ thờ cúng ông bà, rửa tội theo
đạo Thiên Chúa. Người ta kháo nhau Theo đạo có gạo mà
ăn. Tuy vậy, cũng có người dám lên tiếng Khóc sư khóc
cụ, phê bình cả đạo Phật lẫn đạo Thiên Chúa bằng"Bài
văn tế của một chú tiểu và một nhà thày khóc điếu nhà
sư và cụ đạo chết đuối vì bị đắm đò". Tác giả mỉa
mai nhà sư và cố đạo đi cứu vớt linh hồn người khác
nhưng không cứu được chính mình (8).
Có
người phỉ báng thô bạo đạo Phật, đạo Thiên Chúa:
 Sư
ông đăng đàn, vãi ra kia, tiểu ra đấy
 Cố
đạo rửa tội, cha đằng trước, sờ đằng sau
Có
người chán nản, chê trách bọn vọng ngoại, chạy theo Pháp:
Bụt
chùa nhà không thiêng, đi cầu Thích Ca ngoài đường.
Bụt
là Phật. Thích Ca cũng là Phật. Nhưng chê Phật của làng
mình không thiêng, không "hay" bằng Phật của bọn "ngoài đường".
Câu nói rất tế nhị. Bụt là Phật của dân gian. Thích Ca
là Phật của giới trí thức.
Dân
gian chê bọn
Múa rìu qua mắt thợ là bọn Giảng kinh
cho Thích Ca.
Câu này bắt chước câu Bảo hoàng hơn vua
(Plus
royaliste que le roi của Pháp).
***
II-
Đạo Phật trong truyện dân gian.
Đức
Phật thường hiện thành ông Bụt.
Bụt
hiện lên giúp đỡ cô Tấm hiền lành mỗi khi cô bị mẹ
con cô Cám độc ác, nham hiểm, tìm cách hãm hại. Kết cuộc
là Tấm được vua lấy làm vợ. Mẹ con Cám phải đền tội.
Cái thiện thắng cái ác.
Bụt
giúp con người chống lại quỷ dữ. Bụt khuyên dạy con người
ngày Tết trồng cây nêu, vẽ cung tên để xua đuổi quỷ.
Đầu
thế kỉ XX, nhiều truyện Tàu (Tây du kí, Tam quốc chí,
Thuỷ hử…) được dịch sang chữ quốc ngữ.
Truyện
Tây
du kí của Ngô Thừa Ân kể lại chuyến đi Ấn Độ thỉnh
kinh Phật đầy vất vả của nhà sư Huyền Trang, đời Đường.
Từ một sự kiện lịch sử có thật Ngô Thừa Ân đã tưởng
tượng, thêu dệt thành một truyện phong thần, phù phép của
đám đệ tử của Phật, Lão, Ngọc Hoàng, thần tiên, ma quỷ.
Đọc
Tây du kí ai cũng phục tài chú khỉ Tôn Ngộ Không đi mây
về gió, biến hoá như thần. Lúc thì đại náo thiên cung,
khi thì khuất phục ma vương. Ai cũng nhớ vanh vách các chiến
công của Tôn Ngộ Không, quên cả mục đích của thầy Đường
Tăng là đi thỉnh kinh Phật.
Ngoài
ra, còn có truyện Phật bà Quan Âm Thị Kính, Phật
bà Quan Âm Nam Hải và Phật bà Quan Âm Hương Sơn
được lưu hành, phổ biến tại nước ta.
Xin
tóm tắt sự tích 3 bà Phật Quan Âm.
1- Phật bà Quan
Âm Thị Kính
Bà
Thị Kính là con gái nhà họ Mãng ở nước Cao Li, được cha
mẹ gả cho Thiện Sĩ.
Một
hôm, Thiện Sĩ đọc sách, thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi may
vá bên cạnh, thấy cằm chồng có sợi râu mọc ngược, bà
cầm dao định cắt. Bất ngờ Thiện Sĩ thức giấc. Tưởng
vợ muốn hại mình, Thiện Sĩ hoảng hốt kêu la cầu cứu.
Thị
Kính bị bố Thiện Sĩ trả lại cho Mãng ông.
Bà
buồn khổ, cải dạng đàn ông, bỏ nhà đi tu. Được đặt
pháp danh là Kính Tâm.
Gần
chùa có ả Thị Mầu tính tình lẳng lơ. Từ ngày thấy mặt
tiểu Kính Tâm, Thị Mầu đem lòng yêu mến và tìm cách quyến
rũ nhưng không được.
Thị
Mầu tằng tịu với tên đầy tớ, rồi có chửa. Bị dân
làng bắt vạ, Thị Mầu đổ tội cho Kính Tâm. Kính Tâm bị
dân làng đánh đập. Sư cụ phải đứng ra xin.
Sư
cụ đuổi Kính Tâm ra ở dưới mái tam quan.
Đẻ
con ra, Thị Mầu mang đứa bé đến chùa bắt Kính Tâm nuôi.
Vài
năm sau, Kính Tâm chết. Lúc khâm liệm, mọi người bàng hoàng
thấy chú tiểu Kính Tâm là con gái. Tất cả các nỗi oan của
bà Thị Kính được minh giải.
Bà
Thị Kính đắc đạo, trở thành Phật bà Quan Âm Thị Kính.
Truyện
Quan
Âm Thị Kính rất gần đời sống trần tục, không có
điều gì huyền bí.
Dân
gian đã gói ghém ý nghĩa của truyện bằng thành ngữ Oan
Thị Kính.
Một
số chùa nước ta thờ tượng Quan Âm tống tử, tạc
hình bà Thị Kính bế đứa bé (con Thị Mầu), bên cạnh có
con vẹt (Thiện Sĩ).
Ai
là tác giả văn bản nôm truyện Quan Âm Thị Kính? Có
người cho rằng truyện đã được một tác giả khuyết danh
của thế kỉ XVIII soạn. Nhưng theo Hoa Bằng thì truyện Quan
Âm Thị Kính
đã được Nguyễn Cấp soạn vào giai đoạn
đầu thế kỉ XIX, thời Minh Mệnh (9).
Ngày
nay có vài bản Truyện Quan Âm Thị Kính được
lưu truyền. Trong số này có bản được Thiều Chửu chú giải
công phu theo giáo lí nhà Phật (10).
Truyện
có mấy câu thơ được truyền tụng:
 -
Sông
kia còn có kẻ dò,
 Lòng
người ai dễ mà đo cho cùng
(Lời
cha Thiện Sĩ trách Thị Kính, được sửa đổi thành câu ca
dao quen thuộc:
 Sông
sâu còn có kẻ dò
 Lòng
người nham hiểm ai đo cho cùng)
 -
Dẫu xây chín bậc phù đồ,
 Sao
bằng làm phúc cứu cho một người.
(Tiểu
Kính Tâm trả lời sư cụ lúc nhận nuôi con Thị Mầu. Câu
nói chứng tỏ trò tu hành đã vượt xa thầy).
Bên
cạnh Phật bà Quan Âm Thị Kính dân ta còn thờ Phật
bà Quan Âm Nam Hải và Phật bà Quan Âm Hương
Sơn.
2- Phật bà Quan
Âm Nam Hải
Bà
tên là Diệu Thiện, con vua Diệu Trang, nước Hưng Lâm.
Năm
Diệu Thiện 16 tuổi, vua cha muốn bà lấy chồng để có người
truyền ngôi. Nhưng bà nhất định không chịu. Muốn được
đi tu.
Nhà
vua đành phải chấp thuận cho Diệu Thiện ra tu tại chùa Bạch
Tước. Hi vọng rằng sau một thời gian sống cực nhọc, bà
sẽ xin trở về cung điện. Và cuối cùng sẽ chịu lấy chồng.
Không
ngờ Diệu Thiện quyết chí ở lại chùa tu hành.
Vua
cha tức giận, sai người đốt chùa. Bắt Diệu Thiện về
cung, ép lấy chồng. Nhưng bà vẫn khăng khăng từ chối.
Vua
hạ lệnh đem Diệu Thiện ra chém. Đao vừa giơ lên thì bị
gãy đôi. Vua sai người thắt cổ bà. Trong lúc mê man bất
tỉnh, hồn bà được một con hổ cõng tới Tùng Lâm. Diệu
Thiện được dẫn đi thăm viếng Thập điện dưới địa
ngục.
Lúc
tỉnh lại Diệu Thiện được Phật khuyên đến tu tại núi
Phổ Đà, cù lao Hương đảo, ngoài Nam Hải.
Sau
ngày hại Diệu Thiện, vua Diệu Trang mắc bệnh, sai người
đi tìm danh y. Diệu Thiện giả dạng một nhà sư già đến
xin chữa bệnh cho vua, bảo phải đến Phổ Đà xin mắt và
tay người về làm thuốc.
Vua
sai Triệu Chấn, Lưu Khâm đến Phổ Đà. Diệu Thiện hiến
mắt và tay.
Vua
khỏi bệnh, cùng hoàng hậu đến Phổ Đà tạ ơn.
Được
Diệu Thiện khuyên giải, vua Diệu Trang quyết định bỏ ngai
vàng, cùng hoàng hậu đi tu.
Diệu
Thiện đắc đạo, trở thành Phật bà Quan Âm Nam Hải.
Truyện
Quan
Âm Nam Hải của Tàu pha trộn nhiều tình tiết quái dị,
hoang tưởng.
Phật bà Quan
Âm Nam Hải được giới buôn bán bằng đường biển tôn
thờ.
3- Phật bà Quan
Âm Hương Sơn
Truyện
Quan
Âm Nam Hải được Kiều Oánh Mậu (đỗ phó bảng khoa Tự
Đức Canh Thìn, 1880), phóng tác thành truyện Hương Sơn Quan
Thế Âm(11).
Hai
truyện có nội dung giống nhau. Cùng kể sự tích Diệu
Thiện, con vua Diệu Trang, nước Hưng Lâm. Nhưng Kiều Oánh
Mậu đã thay đổi vài chi tiết:
-
Truyện Hương Sơn Quan Thế Âm xảy ra dưới thời nhà
Trần tại nước ta.
-
Lúc bị thắt cổ, mê man bất tỉnh, hồn Diệu Thiện được
hổ cõng tới chùa Hương Tích (chùa Hương), tại Hương
Sơn của nước ta.
-
Diệu Thiện tu 9 năm tại chùa Hương Tích, nơi
có đặc sản rau sắng:
 Trà
mai càng nhắp càng thanh
 Càng
canh rau sắng càng lành càng ngon
Bà
đắc đạo, thành Phật Quan Âm Hương Sơn.
Quan
Âm Nam Hải của cư dân biển đảo đã được Kiều Oánh
Mậu Việt hoá thành Quan Âm Hương Sơn của cư dân đồng
bằng.
Là
một nhà khoa bảng nhưng Kiều Oánh Mậu lại quan niệm rằng:
 Xưa
nay tiên, Phật, thánh, hiền
 Dẫu
cho khốn nạn truân triên chẳng rời
 Chữ
rằng tam giáo nhất nguyên
 Thích
Ca, Khổng, Lão thánh hiền đời xưa.
Có
lẽ vì vậy mà ông đã chấp nhận cả những điều mê tín
dị đoan của đạo Lão biến thể.
Rốt
cuộc, dân gian nước ta có 3 bà Phật Quan Âm. Bà Thị Kính
người Cao Li, bà Diệu Thiện người Tàu và bà Diệu Thiện
người Việt gốc Hoa.
***
III-
Đạo Phật trong tranh dân gian.

Bên
cạnh 3 bà Phật Quan Âm, dân ta còn thờ thêm 3 bà Mẫu Thượng
Thiên, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn.
Người
ngoại đạo dễ lẫn lộn các bà.
Sách
Imagerie
populaire vietnamienne (Tranh dân gian Việt Nam) của Maurice
Durand (12)
có 2 tấm tranh vẽ truyện Hương Sơn Quan Thế Âm.
1)
Tấm thứ nhất vẽ Diệu Thiện đang quét chùa Bạch Tước
(tr. 442). Cổng chùa có câu đối bằng chữ quốc ngữ:
 Dồng
(rồng) thì phun nước
 Hầm
(hùm) thời bổ củi
Tranh
vẽ diễn tả mấy câu thơ trong truyện:
 Nào
là giẩy quét cửa nhà
 Nào
là gánh nước, nào là hái rau
 Rồng
thời phun nước tùng khi
 Hùm
thời bổ củi, chim thời nhặt rau
Durand
gán nhầm tranh này cho truyện Quan Âm Nam Hải.
(Tranh
Quan
Âm Nam Hải (tr. 443) vẽ Triệu Chấn, Lưu Khâm đến Phổ
Đà xin mắt và tay để làm thuốc chữa bệnh cho vua Diệu
Trang. Tranh có câu thơ nôm:
 Mắt,
tay làm thuốc làm thang
 Để
về cứu bệnh vua Trang tức thì
Truyện
Hương
Sơn Quan Thế Âm không có tên Triệu Chấn, Lưu Khâm).
2)
Tấm thứ nhì vẽ Diệu Thiện tu tại chùa Hương Tích (tr.
178). Bà ngồi toà sen, có Kim Đồng, Ngọc Nữ (hay Thiện Tài,
Long Nữ) đứng hầu hai bên. Cổng chùa có câu:
 Hiêu
(hươu) thời dưng hoa
 Hạc
thời tiến quả
Maurice
Durand đã nhầm lẫn, chú thích sai tấm tranh thứ nhì này.
Ông nhầm
Phật bà Hương Sơn thành Mẫu Thượng Ngàn
(Déesse de la Forêt) của đồng bóng.
Ở
một chỗ khác (tr. 180) Maurice Durand lại nhầm (Phật bà) Quan
Âm thành
Mẫu Thượng Thiên (Déesse Céleste).
Có
một mẹo
giúp người xem tranh dân gian khỏi bị nhầm
lẫn:
Thông
thường thì tranh thờ của ta vẽ các Mẫu ngồi võng đào
hay ngai vàng. Chỉ có các vị Phật mới ngự toà sen. Đôi
khi toà sen được thay bằng chữ Vạn viết trên ngực.
Nếu
tranh vẽ một vị ngồi toà sen thì chắc chắn vị đó không
phải là Mẫu của đồng bóng.
Tranh Oger (chỉ
có nét đen) có tấm Quan Âm tống tử và nhiều tấm
vẽ các sinh hoạt của dân gian có nhà sư tham dự như Nhà
sư rước nước (sửa soạn hội làng), nhà sư làm lễ
phá
ngục (lễ Trung Nguyên, Xá tội vong nhân), nhà sư làm
lễ cát đoạn (lễ Kì Yên) v.v.
*
Xin
ngừng.
Khoan
đã… Ngày nay, dân gian nghĩ gì về đạo Phật? Dạ, không
biết! Không dám bàn. Chỉ thấy nước ta bây giờ xây nhiều
chùa sặc sỡ, đắp nhiều tượng cao to. Đứng gần ngửa
cổ nhìn cũng không thấy hết mặt Phật. Có tượng bị sập
đổ ngay trong lúc đang xây đắp.
Nguyễn
Dư
Tư liệu tham
khảo:
(1)
-
Thánh Tông di thảo, Văn Học, 2001, tr.17- 20.
(2)
- Henri Oger, Technique du peuple annamite, Hà Nội, 1909.
(3)
- Vũ Ngọc Phan,
Tục ngữ và dân ca Việt Nam, Sử Học,
in lần thứ tư, 1961, tr. 247.
(4)
- Đặng Thanh Hoà, Từ điển Phương ngữ tiếng Việt,
Đà Nẵng, 2005.
(5)
-
6 truyện - thơ nôm đầu thế kỷ XX, Tổng Hợp Thành
Phố Hồ Chí Minh, 2006, tr. 73.
(6)
- Docteur Hocquard,
Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr.316,
358.
(7)
- Nguyễn Hiến Lê, Đại cương văn học sử Trung quốc,
q 2, Nguyễn Hiến Lê, 1955, tr.208.
(8)
- Trần Trung Viên,
Văn đàn bảo giám, Mặc Lâm, 1969,
quyển II, tr. 219.
(9)
- Cao Huy Đỉnh,
Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt
Nam, KHXH, 1976, tr.151.
(10)
-
Truyện Quán Âm Thị Kính, Thiều Chửu chú giải,
An Tiêm, 1995.
(11)
- Kiều Oánh Mậu, Hương Sơn Quan Thế Âm chân kinh tân dịch,
1909, bản chép tay của thư viện đại học Yale, Hoa Kì.
* Xin có lời cám
ơn chủ nhân Quán ven đường Huỳnh Chiếu Đẳng đãcho
mọi người sử dụng kho sách của quán.
(12)
- Maurice Durand,
Imagerie populaire vietnamienne,
École française d’Extrême-Orient,
2011, tr. 422, 443, 178, 180.
* * *
|