Đọc
Thơ
Đường bất ngờ thấy bài Lương Châu từ của Vương
Hàn (687-726):
Bồ
đào mĩ tửu dạ quang bôi
Dục
ẩm tì bà mã thượng thôi.
Tuý
ngoạ sa trường quân mạc tiếu,
Cổ
lai chinh chiến kỉ nhân hồi.
Nhớ
mang máng ngày xưa có lần được nghe thầy giảng Bồ đào
mĩ tửu.
Nghe như vịt nghe sấm. Chữ thầy trả thầy. Hôm
nay xin vô phép hỏi thầy:
-
Thưa
thầy, rượu Bồ đào của Vương Hàn mặt mũi, mùi vị
ra sao ạ?
Từ
điển Génibrel, Gustave Hue, dịch bồ đào sang tiếng Pháp
là vigne (cây nho), raisin (quả nho). Bồ đào tửu
là vin (vanh, được Việt hoá thành rượu vang,
còn được gọi là rượu nho hay rượu chát).
Tự
vị Huỳnh Tịnh Của, tự điển Thiều Chửu, từ điển Đào
Duy Anh cũng định nghĩa bồ đào là dây nho, trái
nho.
Lương
Châu từ
được Trần Trọng Kim dịch sang tiếng Việt:
Rượu
nho kèo chén lưu li
Uống
thì trên ngựa tiếng tì dục sôi
Say
nằm bãi cát chớ cười
Xưa
nay chinh chiến mấy ai đã về (1).
Hai
câu thơ đầu được Nguyễn Hiến Lê dịch là:
Rượu
bồ rót chén dạ quang
Trên
yên, sắp uống, nghe vang đờn tì
(Nguyễn Hiến Lê
chú thích rượu bồ đào là rượu nho, chỉ Tây
vực mới có) (2).
Trần
Quang Trân dịch là:
Bồ
đào rượu ngát chén lưu ly,
Toan
nhắp, tỳ bà đã giục đi
(Trần Quang Trân
cũng giải nghĩa bồ đào là rượu nho) (3).
Cả
ba nhà nghiên cứu thơ Đường đều nói rằng bồ đào
của Vương Hàn là rượu nho.
Tất
cả các từ điển, các vị thâm nho đều nói bồ đào
là rượu nho. Hiếm khi có sự đồng ý một trăm phần
trăm như vậy.
Bồ
đào mĩ tửu
dứt khoát là rượu nho ngon tuyệt
vời, hết xảy!
Mời
các bạn cứ tiếp tục thoải mái cụng li, nâng chén. Thắc
mắc vớ vẩn là chuyện của người khác.
***
Trước
kia chỉ được nghe loáng thoáng tên bồ đào nên cứ
đinh ninh là rượu đào, rượu làm bằng đào hay được
ngâm đào. Bây giờ đọc sách, tra từ điển mới thấy được
hai điều:
-
Chữ đào của rượu bồ đào viết khác chữ đào
là quả đào.
-
Bồ
đào viết giống tên nước Bồ Đào Nha. Trùng hợp
này chỉ là ngẫu nhiên hay có lí do?
Ai
cũng nói Bồ đào là rượu nho, cây nho, quả
nho. Tại sao không chịu khó thử đi xem mặt mũi, gốc gác
cây nho, quả nho. May ra tìm được một hai điều hay ho?
Ngành
khảo cổ học cho biết cây nho có mặt trên trái đất từ
thời khai thiên lập địa, cách ngày nay khoảng 25 triệu năm.
Họ hàng nhà nho rất đông. Mọc hoang khắp nơi.
Có
nhiều bằng chứng chắc chắn là con người sống tại nhiều
khu vực khác nhau đã biết trồng nho để ăn quả từ thời
thượng cổ (6000-3000 năm trước Công nguyên).
Không
biết ai là tổ sư của nghề làm rượu nho. Sách vở chỉ
nói rằng tổ tiên loài người đã từng có cái thú... say
rượu!
Kinh
Thánh của đạo Thiên Chúa kể rằng "Nô-Ê khởi cày đất
và trồng nho. Người uống rượu say, rồi loã thể ở giữa
trại mình".
Đất
say đất cũng lăn quay
Trời
say mặt cũng đỏ gay, ai cười (Tản Đà, Lại say)
Say
trần truồng cũng chả sao. Chả sợ ai cười.
Người
Ai Cập biết làm rượu nho sớm nhất, khoảng 4500 năm trước
Công nguyên. Họ truyền dạy cho các nước chư hầu, dân nô
lệ xung quanh. Sau đế quốc Ai Cập, đế quốc La Mã tiếp
tục khuếch trương nghề trồng nho, làm rượu ra khắp châu
Âu.
Thế
kỉ 16, các nước phương Tây nằm bên bờ biển Đại Tây
Dương như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan v.v. thi nhau dùng
tàu thuyền đi tìm thị trường buôn bán. Họ đến được
Ấn Độ, Trung quốc... Những vùng đất mới xa xôi này thu
hút sự chú ý của giáo hội La Mã. Giáo hội bèn sai các giáo
sĩ đi theo tàu buôn, đi "khai hoá" các dân tộc "man rợ". Tiếp
theo con buôn, giáo sĩ là lính tráng. Dưới chiêu bài để bảo
vệ quyền lợi của thương gia, giáo sĩ, nhiều nước mang
quân đội đi chiếm thuộc địa.
Lái
buôn Bồ Đào Nha là những người phương Tây vượt biển
đến Á Đông sớm nhất.
Năm
1516, Fernand Perez đến Đàng Trong nước ta, Rafael Perestrello
đến Quảng Đông. Năm 1535, các thương gia Bồ Đào Nha đã
thuê
được Ma Cao (Áo Môn) làm cửa biển thông thương. Năm 1540,
họ lập được quan hệ thương mại với Đàng Trong.
Năm
1581, giáo sĩ dòng Tên người Ý Mathieu Ricci đi theo tàu của
thương gia Bồ Đào Nha đến Ma Cao. Sứ mạng đi rao giảng
Kinh Thánh bắt đầu...
Kinh
Thánh kể lại bữa ăn cuối cùng của Đức chúa Jêsus và
mười hai sứ đồ :
"Đến
tối, Ngài ngồi ăn với mười hai sứ đồ (...)
Khi
đương ăn, Đức chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn rồi, bẻ ra
đưa cho môn đồ mà rằng : Hãy lấy ăn đi, nầy là thân
thể ta. Ngài lại lấy chén, tạ ơn rồi, đưa cho môn đồ
mà rằng : Hết thảy hãy uống đi; vì nầy là huyết
ta,
huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người
được tha tội.
Ta
phán cùng các ngươi, từ rày về sau, ta không uống trái
nho nầy nữa, cho đến ngày mà ta sẽ uống trái nho
mới cùng các ngươi ở trong nước của Cha ta".
Cuối
bữa ăn, Đức chúa Jêsus cho các sứ đồ ăn bánh (tượng
trưng thân thể Chúa), uống (nước) trái nho (tượng
trưng máu Chúa). Điều này luôn luôn được nhà thờ Thiên
Chúa giáo nhắc nhở. Cuối mỗi buổi lễ, đức cha làm lễ
tạ ơn, ăn bánh và uống rượu nho, rồi cho các tín đồ ăn
bánh thánh (ít khi cho uống rượu).
Nghi
lễ của nhà thờ phải có bánh thánh và rượu nho (nhiều
nơi dùng
rượu đỏ).
Đi
rao giảng Kinh Thánh cho dân chúng địa phương, các giáo sĩ
bắt buộc phải dịch Kinh Thánh sang tiếng địa phương. Từ
nào tiếng địa phương không có thì phải sáng tạo ra từ
mới.
Chẳng
hạn như trường hợp của từ... bồ đào và nho!
***
Bồ
đào của Tàu.
Nước
Portugal
(Bồ Đào Nha) nằm về phía tây châu Âu, thủ đô ngày nay
là Lisboa. Thành phố lớn thứ nhì của Portugal
là Porto (Porto nghĩa là hải cảng).
Ngày
xưa, đế quốc La Mã đã sớm nhận ra được vị trí quan
trọng của một vùng đất có cửa sông đổ ra biển Đại
Tây Dương. Rất thuận tiện cho tàu bè qua lại. Tại đây,
năm 138, người La Mã khởi công xây dựng thành phố Portus
Calle, buôn bán sầm uất.
Tên
Portus
Calle về sau được dùng để đặt tên nước Portugal.
Portus
trở
thành thủ đô Porto.
Thành
phố Porto và các vùng phụ cận, từ xưa đến nay,nổi
tiếng nhờ... làm rượu nho.
Năm
1761, rượu nho làm tại Porto được phép gọi là rượu
Porto. Lần đầu tiên trên thế giới, một sản phẩm được
phép mang tên nơi sản xuất. Thương hiệu Rượu Porto
có trước Rượu Champagne, Rượu Bordeaux
v.v...
Trở
lại thời thương gia Bồ Đào Nha và các giáo sĩ đến Ma Cao...
Rao
giảng Kinh Thánh cần phải có... rượu nho. Nếu được rượu
nho màu đỏ thì càng tốt vì đúng màu máu Chúa!
Thế
kỉ 16, rượu làm tại Porto, đã được lái buôn người
Bồ Đào Nha mang vào nước Tàu, đã được các nhà truyền
giáo dùng trong các buổi lễ của nhà thờ.
Người
Trung quốc có thể mua rượu nho ngoài phố. Giáo dân biết
rượu nho qua bài giảng Kinh Thánh. Nhiều người được thấy
rượu nho trong nhà thờ.
Người
Trung quốc gọi rượu nho là rượu Porto hay rượu
của Portugal.
Porto,
Portugal
được ghi âm và được đọc theo âm Hán Việt là Bồ đào,
Bồ
Đào Nha.
Hai
cặp Bồ Đào, tên rượu nho và tên nước, viết giống
nhau vì cùng từ một gốc (porto, portu) mà ra. Không
phải ngẫu nhiên mà Bồ đào (rượu nho, quả nho) viết
giống Bồ Đào Nha.
***
Nhưng...
-
Nói rằng Bồ Đào là Porto, Portugal... là
sai
bét
nhè!
Ai
có say xỉn, ngất ngư không xem trời đất ra cái thá gì, cũng
phải công nhận là... thời Vương Hàn (687-726) nước Tàu đã
có bồ đào mĩ tửu rồi. Nghĩa là nước Tàu đã có
rượu
nho từ 8, 9 thế kỉ trước khi người Bồ Đào Nha đến
buôn bán, lập thương điếm tại Ma Cao!
Lưu
Linh tái thế cũng cứng họng, chịu thua. Ăn làm sao uống làm
sao đây?
-
Trời đánh còn tránh... cụng li. Cứ uống. Mặc cho đất trời
ngả nghiêng. Hạ hồi sẽ biết ai tỉnh, ai... sai?
Đúng
hay sai, xin nhờ một người sống cùng thời với Vương Hàn
là bác Đỗ Phủ (712-770) phân xử giùm.
Đỗ
Phủ sống rất vất vả vì phải chạy loạn An Lộc Sơn. Nay
đây mai đó. Đỗ Phủ được chứng kiến nhiều thay đổi,
xáo trộn của xã hội.
Bài
Tẩy
binh mã (Rửa khí giới) của Đỗ Phủ có câu:
Kinh
sư giai kỵ hãn huyết mã,
Hồi
Ngột ổi nhục Bồ Đào cung.
Nghĩa
là:
Nơi
Kinh sư toàn dùng giống ngựa "mồ hôi máu",
Quân
Hồi Ngột no thịt ở cung Bồ Đào.
-
Ngựa "mồ hôi máu" là giống ngựa hay ở phương Bắc, khi
chạy đường trường, mồ hôi đổ ra đỏ như máu.
-
Hồi Ngột là tên một dân tộc ở phương Bắc, sang giúp nhà
Đường dẹp loạn An Lộc Sơn.
Hai
câu thơ trên được N. T. dịch là:
Hồi
Ngột đưa thêm quân trợ thuận
Kinh
sư đều cưỡi ngựa truy phong (4).
Thơ
dịch thiếu, không có cung Bồ Đào. Ổi (bộ Hoả)
nghĩa là
nướng (Thiều Chửu). Ổi nhục nên dịch
là nướng thịt, đúng hơn là no thịt.
Tẩy
binh mã của Đỗ Phủ gián tiếp giúp chúng ta hiểu được
câu thơ của Vương Hàn:
Bồ
Đào mĩ tửu dạ quang bôi nghĩa là Tại cung Bồ Đào,
uống rượu ngon bằng chén dạ quang.
Cung
Bồ
Đào ở Trường An, thời bình là nơi khách dừng ngựa,
vào uống rượu nghe đàn hát (thơ Vương Hàn), thời loạn
bị quân Hồi Ngột chiếm đóng, biến thành "cung ẩm thực",
ăn uống xô bồ (thơ Đỗ Phủ).
Bồ
Đào của Vương Hàn là tên một cung đời Đường, không
phải là rượu nho của Bồ Đào Nha. Đời Đường,
Trung Quốc chưa có thứ rượu này. Ngẫu nhiên tên cung đồng
âm với tên rượu.
Lý
Bạch (701-762), bạn của Đỗ Phủ, cũng có hai câu thơ tương
tự như thơ Vương Hàn:
Lan
Lăng mĩ tửu uất kim hương
Ngọc
uyển thinh lai hổ phách quang (Khách trung tác)
Nghĩa
là:
Rượu
ngon đất Lan Lăng đượm mùi thơm cỏ uất kim
Đựng
trong chén ngọc màu hổ phách sáng ngời (5).
Lan
Lăng là một địa danh. Lan Lăng mĩ tửu không phải là
rượu Lan Lăng ngon.
Bạch
Cư Dị (772-846) có câu:
Bất
tuý Tầm Dương tửu
Yên
ba sầu sát nhân
Tản
Đà dịch:
Chẳng
say chén rượu Tầm Dương
Khỏi
sao sóng khói sầu thương chết người (6).
Tầm
Dương là một địa danh. Nơi ông Tư mã Giang Châu Bạch Cư
Dị sau khi được nghe một cô lái đò đàn hát, đã sáng tác
bài Tì bà hành nổi tiếng.
Nói
tóm lại:
-
Các từ điển (từ thế kỉ 16 trở về sau) định nghĩa bồ
đào là
rượu nho là đúng.
-
Ba dịch giả Trần Trọng Kim, Nguyễn Hiến Lê, Trần Quang Trân
đã dịch sai thơ của Vương Hàn. Ba ông nhầm cung Bồ Đào
thành rượu bồ đào, rượu nho.
Bồ
Đào mĩ tửu! Rượu vào lời ra. Chữ say liền với
chữ sai một vần.
***
Quả
nho của ta.
Tên
nho
(quả nho, rượu nho) của tiếng Việt không có liên hệ ngữ
âm với bồ đào. Chỉ vì quả nho được dùng làm rượu
bồ đào, nên dịch bồ đào là nho ... cho tiện.
Tên
nho
có nguồn gốc khác bồ đào.
Đầu
thế kỉ 17 Cristophoro Borri, người Ý, đã sống một thời
gian tại Xứ Đàng Trong. Ông ghi chép được nhiều điều
mắt thấy tai nghe về phong tục và đời sống của dân ta (7).
Borri
cho biết là năm 1621 Đàng Trong không có nho. Dân ta chỉ
uống thứ rượu làm từ gạo. Dân ta không biết rượu
nho là gì.
Phải
chờ 30 năm sau, Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de
Rhodes (1651) mới có blái (trái) nho và nước blái (trái)
nho.
Tuy
rằng từ điển Alexandre de Rhodes có nho nhưng thực tế
thì chưa chắc là năm 1651 nước ta đã có nho, có rượu nho.
-
Nói gì kì cục vậy?
Dám
nói như vậy, vì... Alexandre de Rhodes là một nhà truyền giáo...
Trái
nho được Kinh Thánh viết bằng tiếng Pháp chép là fruit
de la vigne (trái của cây nho).
Cây
nho, tiếng Pháp là vigne. Trái nho là raisin.
Nước trái nho là vin (rượu vang). Raisin,
vigne hay vin
không giải thích được nguồn gốc của
từ nho.
Từ
điển Alexandre de Rhodes dùng tiếng Việt, tiếng Bồ Đào
Nha và tiếng La Tinh.
Cây
nho
tiếng Bồ Đào Nha là vinha (vi-nha). Rượu nho là
vinho
(vi-nhu). Âm nha, âm nhu đã được Việt hoá
thành nho. (Tương tự, nước Tây Ban
Nha có khi là
Y Pha Nho, đạo Nho có người gọi là đạo
Nhu).
Tên
nho cho thấy sự đóng góp của các giáo sĩ người Bồ
Đào Nha vào việc sáng tạo chữ quốc ngữ mà mục đích ban
đầu là để truyền bá đạo Thiên Chúa. Trái nho chứng
tỏ Alexandre de Rhodes đã từng sống tại Đàng Trong trước
khi ra
Đàng Ngoài.
Vì
nhu cầu giảng đạo, truyền bá Kinh Thánh, các giáo sĩ đã
sáng tạo nhiều từ mới cho tiếng Việt. Trái nho và
nước trái nho (rượu nho) là một thí dụ.
Rất
có thể các giáo dân người Việt, sống vào nửa đầu thế
kỉ 17 chỉ biết tên chứ chưa được thấy mặt quả
nho
của Âu châu.
Bằng
chứng đâu?
-
Báo cáo của Phòng Nông Nghiệp và Kĩ Nghệ Nam Kì cho
biết: Năm 1878, Nam Kì chỉ có một loại nho dại, mọc hoang
rất nhiều, quả chua. Người Pháp có mang một giống từ Pháp
sang trồng, một năm thu hoạch được 3 lần!(8).
Nho
trồng tại Pháp, mỗi năm chỉ thu hoạch một lần. Trồng
tại Nam Kì thu hoạch 3 lần. Mùi vị ra sao? Bản báo cáo không
cho biết.
-
Bác sĩ Hocquard kể rằng năm 1884 ông tới thăm linh mục Girod
tại địa phận truyền giáo Nam Định. Thời đó, Bắc kì
không có rượu nho. Nho thì chỉ có nho mọc hoang, quả chua,
mùi vị không ra gì. Hàng năm, có người gửi rượu vang
từ Hồng Kông sang để linh mục dùng làm rượu lễ (vin
de messe). Tại Kẻ Sở, giám mục Puginier có cho trồng thử
lúa mì và nho mang giống từ Âu châu sang. Lúa mì mọc khá
tốt nhưng nho thì chỉ cho ra toàn quả tồi (9).
Có
thể nói rằng trước kia nước ta chỉ có nho dại, mọc hoang.
Năm 1878, người Pháp mang một giống nho ăn quả sang trồng
thử tại Nam kì. Năm 1884, giám mục Puginier cũng trồng thử
nho tại Nam Định nhưng không thành công.
Đi
hành quân, bình định Bắc kì, nhiều sĩ quan Pháp vẫn giữ
thói quen uống
rượu vang, ăn đồ hộp gửi từ Pháp
sang.
***
Rượu
bồ của ta.
Tửu
đồ nước ta quen ca tụng (sai) rượu bồ đào của Vương
Hàn, ít người biết rằng ta cũng có rượu bồ.
Thơ
văn xưa của Sài Gòn Gia Định có bài Mắc cúm từ của
Hai Đức, trong đó có câu:
Thuyền
điếu hồn vừa lặn bến Mịch La
Chén
bồ
tửu
mới nghỉ tay tuý khách.
Trương
Vĩnh Ký chú thích bồ tửu là rượu ngâm thạch xuyên
bồ (Huỳnh Tịnh Của, Génibrel gọi là thạch xương
bồ), một loại cỏ thơm, dược thảo (10).
***
Ngày
nay, các nước trên thế giới trồng khoảng năm mươi giống
nho để ăn và làm rượu. Trong số này có vài giống nổi
tiếng như chardonnay,
pinot,
cabernet sauvignon,
merlot v.v.. Rượu nho của châu Âu, châu Mĩ, châu Úc bày
bán khắp nơi. Trắng, vàng, hồng, đỏ. Khách phân vân tự
hỏi trong cả trăm thứ bồ đào,
bồ Úc, bồ
Tây,
bồ
Mĩ, bồ nào hấp dẫn hơn
bồ nào?
Phải
cho mân mê, ngửi, nếm, mới biết được.
Nguyễn
Dư
(Lyon,
6/2017)
(1)-
Trần Trọng Kim, Đường thi, Văn Hoá Thông Tin, 1955, tr.
413.
(2)-
Nguyễn Hiến Lê, Đại cương văn học sử Trung Quốc,
t. 2, Nguyễn Hiến Lê, 1955, tr. 208.
(3)-
Thơ
Đường, tập 1, Văn Hoá, 1987, tr. 128.
(4),
(5),
(6)-
Thơ
Đường, tập 2, Văn Hoá, 1987, tr.176, 75, 277-278.
(7)-
Cristophoro Borri,
Xứ Đàng Trong năm 1621, Tổng Hợp TPHCM,
2014, tr. 62.
(8)-
Cochinchine
française en 1878, Challamel, 1878, tr. 122.
(9)-
Docteur Hocquard,
Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr.316,
358.
(10)-
Nguyễn Thị Thanh Xuân chủ biên, Sài Gòn Gia Định xưa qua
thơ văn, nxb TPHCM, 1987, tr. 394.
|