Ông
bạn mới đi chơi Việt Nam về, hớn hở khoe:
-
Lần này ghé Huế, được ăn cơm vua. Vui quá! Ông ăn
cơm
vua chưa?
-
Thuở bé, ăn đến phát ngấy rồi! Cơm vua thời đổi
mới thì chưa ăn.
Ông
bạn cười tôi lẩm cẩm, lẫn lộn ngày xưa với ngày nay!
Năm 1948, 49 gia
đình tôi ở phố Lê Lợi (Bà Triệu bây giờ), giữa nhà
thương chữa mắt (Viện Mắt) và chùa Chân Tiên. Chiều
tối, trẻ con tràn ra vỉa hè vui đùa, hò hét inh ỏi. Chơi
bi, đánh đáo,
kéo cưa...
Kéo
cưa lừa xẻ
Thợ
khoẻ cơm vua
Thợ
thua cơm làng
Thợ
nào dở dang
Về
bú tí mẹ.
Hầu
như ngày nào lũ quỷ sứ cũng rủ nhau ăn cơm vua vỉa
hè.
Bài
hát ngộ nghĩnh.
Cơm vua, cơm làng nấu nướng,
ăn uống ra sao là chuyện của người lớn. Trẻ con không cần
biết. Cứ chơi cho sướng.
Tình
cờ nghe bạn hỏi mới sực tỉnh. Mới... thắc mắc. Ừ nhỉ,
cơm
vua, cơm làng có gì đặc biệt?
Cơm vua...
Xưa
kia, các sinh hoạt hàng ngày trong Hoàng cung, Tử cấm thành
của vua chúa nước ta không được sử thần nào ghi chép.
Phải nhờ... sách báo của tây ghi chép hộ một trang sử đen
tối...
Đêm
ngày 5 tháng 7 năm 1885 quân ta tấn công quân Pháp đóng tại
đồn Mang Cá trong kinh thành Huế. Rạng sáng hôm sau quân Pháp
phản công.
7
giờ, ngày 6 tháng 7 năm 1885, lá cờ trên kì đài bị bắn
hạ.
Quân
ta thua, bỏ chạy. Vua Hàm Nghi cùng đoàn hộ tống chạy thoát
qua cửa thành hướng tây.
Pháp
chiếm toàn bộ kinh thành của triều đình Huế. Lính Pháp
tiến vào Hoàng cung, Tử cấm thành, vơ vét được nhiều vàng
bạc và báu vật.
Phía
Pháp có 2 đại uý, 3 trung uý và 15 lính bị chết, gần 50
lính bị thương. Phía Việt Nam có khoảng 15 ngàn lính tham
chiến, bị chết hơn 800 người.
Kinh
thành Huế và vùng phụ cận bị tàn phá nặng nề. Mười
ngày sau vẫn còn mùi xác chết, mùi khói cay. Đường phố
vắng bóng người. Súc vật đi hoang, bới tìm thức ăn... (1).
Tháng
9 năm 1885, tướng De Courcy "đặt" Đồng Khánh lên ngai vàng.
Từ
nay, các quan lớn Pháp tự do ra vào Hoàng cung. Vua Đồng Khánh
phải ra cửa đón tiếp. Tết đến (4 tháng 2 năm 1886), Đồng
Khánh được tướng Prudhomme "rủ" đi dạo phố để cho dân
chúng được ngắm "long nhan", được thấy uy quyền của Pháp.
Các
tổ chức và nhân sự của triều đình Việt Nam bị Pháp tuỳ
ý áp đặt, thay đổi, thậm chí xoá bỏ.
Tháng
10 năm 1885, Pháp cho phép triều đình Huế được giữ lại
4000 lính và 400 nhân viên dân sự. (Trước ngày bị Pháp chiếm,
trong kinh thành Huế có khoảng 3 vạn lính của triều đình).
Ngày
17 tháng 1 năm 1886, bác sĩ Hocquard nhờ tướng Prudhomme làm
trung gian xin được phép vào thăm kinh thành Huế. Ngày 20, Hocquard
được cha Hoằng hướng dẫn thăm Hoàng cung.
Hocquard
phải thốt lên rằng bên Âu châu cũng chưa hề có vua nào
có nhiều người phục dịch chuyện ăn uống như vua An Nam!
Hocquard
kể rằng đội bếp của nhà vua gồm 100 người. Mỗi ngày,
mỗi người được phát 30 quan tiền kẽm để đi chợ mua
đồ nấu một món ăn. Người bán hàng chẳng ai niềm nở
với các cậu bếp vì nhiều cậu có thói quen mua chịu rồi
quỵt luôn.
Ngoài
đội nấu ăn ra, còn có thêm 500 người săn thú vật, 50 người
bắn chim. Vùng biển có một đội đánh cá 50 người. Vùng
hải đảo có một đội bắt tổ yến 50 người. 50 người
chuyên pha chế nước trà.
Tổng
cộng, số người phục dịch chuyện ăn uống của nhà vua
lên đến 800 người.
Gạo
vua dùng phải thật trắng. Được lựa từng hạt. Hạt nào
cũng phải còn nguyên vẹn, không bị sứt mẻ. Gạo được
nấu bằng nồi đất, dùng một lần rồi đập bỏ.
Vua
Tự Đức là người rất thận trọng nhưng nhút nhát, hay sợ
sệt. Ngài không ăn những món chưa được ngự y nếm trước.
Nhà vua dùng đũa tre. Mỗi bữa đều thay đũa mới. Vua không
dùng đũa ngà của giới thượng lưu vì đũa ngà nặng quá.
Vua chỉ uống nước đã được chưng cất cẩn thận hoặc
uống một loại rượu hạt sen ướp hương liệu.
Lượng
gạo vua dùng mỗi bữa được cân đúng lượng. Bữa nào vua
ăn không ngon miệng thì ngài gọi ngự y vào. Ngự y pha thuốc
và uống thử trước mặt vua trước khi đưa cho vua dùng (2).
Đầu
tháng 5 năm 1886, Frédéric Baille cùng Khâm sứ Vial vào Hoàng
cung chào mẹ vua Đồng Khánh. Chuyến thăm viếng được Baille
kể lại trong sách Les Annamites (1898).
Có
đoạn nói về chuyện ăn uống của nhà vua:
"Thường
nhật, vua Đồng Khánh dùng (cơm) ba lần : sáu giờ sáng, mười
một giờ trưa và năm giờ chiều. Mỗi bữa ăn có 50 món khác
nhau, do 50 đầu bếp nấu nướng cho Hoàng cung. (Vua Khải Định
chỉ dùng 35 món ăn). Mỗi người lo nấu một món riêng của
mình và khi chuông đổ thì trao cho đám thị vệ đưa qua đoàn
Thái giám. Các ông này chuyển đến năm cung nữ và chỉ có
mấy nàng mới được hân hạnh quỳ gối hầu cơm đức vua.
(...)
Gạo đức vua dùng phải thật trắng và chọn lựa từng hạt,
nấu trong nồi đất, mỗi lần nấu xong thì đập bỏ. Đũa
vua dùng vót bằng tre vừa mới trổ đủ lá và thay đổi hàng
ngày. Loại đũa ngà không tiện dụng vì hơi nặng đối với
tay nhà vua. Số lượng gạo phải được xem kỹ và nấu thật
đúng, không bao giờ nhiều hay ít hơn, nếu đức vua không
ăn như ngày thường, nếu ngài thấy không ngon miệng thì ngài
gọi các viên ngự y đến xem mạch bốc thuốc. Ngài bắt các
y sĩ uống trước mặt ngài" (3).
Tháng
1 năm 1886, Hocquard nói đội đầu bếp của vua có 100 người.
Tháng 5, Baille nói có 50 người. Ai đúng ai sai ? Có thể cả
hai cùng lầm vì nghe "hướng dẫn viên du lịch" người Việt
giải thích.
Orband
cho biết ngay sau khi chiếm được Huế, Pháp đã tổ chức
lại tất cả các sinh hoạt trong kinh thành.
Tháng
10 năm 1885, đầu bếp của triều đình được chia thành đội
phụng
thiện (bếp của mẹ vua) 20 người, thượng thiện
(bếp của vua) 40 người, thượng trà (pha chế nước
trà) 20 người, từ tế ti (tổ chức cúng tế) 40 người,
lý
thiện (bếp của các quan) 40 người, ngư nghệ (đánh
cá) 20 người. Tổng cộng 180 người (4).
Năm
1886, Hocquard và Baille vào thăm viếng Hoàng cung.
Hocquard
và Baille đã được nghe hai người hướng dẫn khác nhau kể
chuyện.
Người
hướng dẫn Hocquard cho biết vài chi tiết về vua Tự Đức.
Người hướng dẫn Baille lại gán những chi tiết này cho vua
Đồng Khánh.
Những
con số (đúng hay sai) được đưa ra là của thời Tự Đức
(hay trước nữa?). Vì thế mà số người làm bếp của nhà
vua, Hocquard chép là 100 người, Baille chép là 50 người. Thời
Đồng Khánh chỉ có 40 người.
Điều
gì hai người hướng dẫn kể giống nhau thì hai bài viết
cũng chép giống nhau.
Văn
học Việt Nam đánh giá vua Tự Đức là ông vua hay chữ, sáng
tác nhiều thơ văn nhất triều Nguyễn. Thế mà nhà vua đã
phải hạ bút khen:
Văn
như Siêu, Quát vô tiền Hán
Thi
đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường
Nhà
vua ca tụng văn của Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát hay hơn văn
thời Hán. Thơ của Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương hay hơn
thơ thời Đường.
Thơ
Đường có bài cổ phong của Lý Thân, được Tương Như dịch
sang tiếng Việt (5):
Ra
công xới lúa giữa trưa,
"Mồ
hôi thánh thót như mưa luống cày.
Ai
ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo
thơm một hột, đắng cay muôn phần".
Không
ngờ thơ Đường của Lý Thân đã trở thành ca dao Việt Nam.
Học trò tiểu học đứa nào chả thuộc lòng câu:
Ai
ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo
thơm một hột, đắng cay muôn phần.
Vua
Tự Đức ăn uống hơi khó tính. Hạt gạo phải trắng, còn
nguyên vẹn. Cân đúng lượng. Nồi niêu thổi cơm chỉ dùng
một lần rồi đập bỏ. Ăn uống như vậy thì chắc là không
biết bài thơ, không biết câu "ca dao Việt Nam" này.
Vua
Tự Đức thích "đập". Sai người khác đập nồi. Chính tay
mình thì...
Đập
cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp
tàn y lại để dành hơi
(Khóc
Thị Bằng, tương truyền của vua Tự Đức)
Đọc
lại mấy tài liệu mới thấy rằng cơm vua của du lịch
Huế ngày nay nói cho đúng thì chỉ là cơm của các quan lớn
trong triều. Ngày xưa, vua ngồi ăn một mình. Có gái hầu.
Vua không ăn cùng đám đông như... tây ba-lô hay Việt kiều
bây giờ. Vừa ăn vừa đùa giỡn, miệng bô bô... chống phong
kiến!
Thổi cơm
thi
|
Cơm làng...
Ngày
xưa, nhiều làng mở hội, tổ chức thi thổi cơm. Một dịp
để các bà, các cô nội trợ trổ tài tại sân đình, trước
mặt đông đủ hàng xóm, láng giềng.
Tất
cả các thứ cần dùng như gạo, nước, củi, nồi (hay niêu),
lửa, được ban tổ chức sửa soạn trước.
Một
hồi trống nổi lên. Các thí sinh sẵn sàng... Dứt tiếng trống,
cuộc thi bắt đầu.
Mọi
người tới tấp vo gạo, nhóm bếp, thổi cơm.
Cơm
chín thì bưng lên nộp ban giám khảo. Nồi cơm nào "phạm trường
quy" thì bị loại ngay. Chỉ một hột sống, cháy, hay nát cũng
không qua được mắt các cụ. Đàn bà con gái gì mà thổi
nồi cơm cũng không nên...
Ai
thổi được nồi cơm chín dẻo, thơm ngon và nhanh nhất thì
thắng giải.
Cơm
dự thi được làng dùng để cúng tế. Sau đó đem chia cho
dân làng.
Thi
thổi cơm là môt trò chơi. Dần dần thay đổi... Có nơi:
Mỗi
người bắc một cái bếp, một cây tre non, và một con dao,
vừa vót tre vừa thổi, lấy tre ấy mà đun bếp, hễ ai thổi
chín trước thì được giải. Lại có nơi vừa ăn mía vừa
thổi cơm, lấy bã mía mà đun bếp (6).
Thi
thổi cơm của làng Chuông, tỉnh Hà Đông rất khó. Có hai
giải.
Giải
dành cho gái làng thì người dự thi phải vừa thổi cơm vừa
trông một đứa bé con người khác, vừa phải giữ một con
cóc thả trong một vòng tròn.
Ai
thổi nồi cơm chín dẻo, dỗ cho đứa bé không khóc, giữ
cho con cóc không nhảy ra ngoài vòng thì thắng giải.
Giải
dành cho trai làng thì người dự thi phải bơi thuyền từ bờ
đầm hay bờ ao bên này, chở các thứ cần dùng sang bờ bên
kia. Bếp lửa phải đặt trên bờ, còn người thổi cơm thì
ngồi dưới thuyền.
Có
làng bắt người dự thi một tay xách con vịt sống, vai gánh
đủ các thứ cần thiết. Nào nồi, nào bếp, gạo, nước,
củi. Vừa đi vừa thổi cơm (7).
Làng
Tích Sơn, tỉnh Vĩnh Yên có tục thổi cơm thi đầu năm. Nồi
cơm được thổi trước tại nhà, mang ra đình dự thi.
Nồi
cơm dự thi phải là nồi đất, sạch sẽ. Muốn được như
vậy, người ta dùng một cái nồi đồng đun bằng bếp củi,
một cái nồi đất đun bếp than. Gạo vo sẵn, để ráo nước,
đổ vào nồi đất, chờ nước sôi. Đun nước sôi bằng nồi
đồng, đổ vào nồi đất, ghế cho đều, rồi bắc lên bếp
than vần cho đến khi cơm chín.
Nồi
đun nước bằng củi bị nhọ nồi bám đen cũng không sao.
Miễn là chiếc nồi đất thổi cơm, được vần trên bếp
than, lúc nào cũng sạch sẽ, không có một vết khói.
Cơm
dự thi được làng dùng để cúng tế. Sau đó mời các vị
chức sắc, lão làng cùng ăn. Còn thừa thì chia cho dân làng (8).
Cơm
làng thường là cơm trắng. Dân gian có người, có lúc phải
ăn cơm đỏ, cơm độn khoai sắn. Đói, cơm gì ăn cũng thấy
ngon. Trừ cơm đen của... làng bẹp hay cơm thầy,
cơm cô của Vũ Trọng Phụng.
Cơm niêu...
Đã
lâu rồi, có lần được bạn bè kháo về thăm Hà Nội nhớ
đi ăn cơm niêu. Ngon lắm. Tôi chỉ cười. Mấy ông khó
tính thế.
Được voi đòi tiên. Sống bên Pháp, ăn gạo
Thái Lan, thổi bằng nồi điện Nhật, không ngon à?
Năm
1995, về làng thăm Bác Hai, tôi nói đùa:
-
Cháu mời bác đi ăn cơm niêu...
-
Chết thật! Bây giờ mà vẫn còn người phải ăn cơm niêu
à?
Bác
tôi suốt đời sống trong làng Hoàng Mai. Mãi đến năm 1954
vẫn chưa biết điện, nước máy là cái gì. Bác khổ sở
với mấy cái nồi, cái niêu bằng đất. Cái nào cũng ám khói
đen sì. Nhọ nồi đóng thành lớp. Lúc rửa chỉ sợ lỡ tay
làm vỡ.
Ôi!
cái thời Ăn xó, mó niêu đen tối. Ai cũng muốn quên.
Tôi
không dám đùa dai với bác. Nói lảng sang chuyện khác.
Tôi
chỉ nghĩ là cơm niêu của Bác Hai không giống cơm niêubây
giờ. Nhưng cơm niêu bây giờ là cái gì thì tôi mù tịt.
Lần
ghé chơi Đà Nẵng, vợ chồng tôi được bạn dẫn đi ăn.
Đang ngồi chờ bỗng nghe tiếng rơi vỡ giòn tan. Tiếp theo
là tiếng vỗ tay đôm đốp. Tiếng cười nói ồn ào.
Phía
góc phòng đang có một đoàn quay phim.
Anh
bạn cười:
-
Bọn Nhật đập niêu, quay phim, quảng cáo món cơm niêu
của mình. Anh chị đã thưởng thức món này chưa?
-
Chưa. Chưa biết cái thú đập niêu.
Năm
ngoái lên chơi Đà Lạt lại bị cái bảng hiệu Hương Trà,
Cơm
niêu, nồi đất, nóng hổi đập vào mắt. Cái thị xã
Đức Trọng còn dáng dấp "nhà quê lên tỉnh", nằm trên đường
Đà Lạt - Sài Gòn cũng mời khách dùng cơm niêu...
Cơm
niêu có vẻ ăn khách. Được đám người thích "đập phá" hưởng
ứng.
Bây
giờ mới biết. Suy cho cùng thì cơm niêu cũng là một
loại cơm vua. Cả hai cùng dùng nồi đất. Dùng xong thì
đập. Chỉ khác nhau về số lượng các món ăn.
Sách
Vân
đài loại ngữ của Lê Quý Đôn có đoạn:
"Bài
Tân
tự của Lưu Hướng chép:
Điền
Nhiên đáp Ai Công rằng:
-
Ăn cơm thì không đập bát. Núp dưới bóng cây thì không bẻ
cành (Thực kỳ thực bất huỷ kỳ khí. Ấm kỳ thụ giả
bất chiết kỳ chi).
Đó
là đường lối ăn ở trung hậu của người xưa" (9).
Vua
chúa Nga có trò
uống rượu đập chén. Tướng tá tây
rút kiếm chém chai, tu rượu. Ta có thói ăn cháo đá bát.
Nay có thêm
mốt mới ăn cơm đập nồi.
Ăn
cơm
vua, cơm niêu kể cũng sướng. Nồi, niêu, đập quách cho
khuất mắt. Khỏi phải ăn trông nồi, ngồi trông hướng.
Nhưng đập mãi cũng nhàm, cũng chán...
Nước
ta còn một đặc sản khác là cơm chúa. Món này
chưa thấy ngành du lịch giới thiệu. Nghe đồn cơm chúa
có
khả năng kích thích năng khiếu... nhảy múa!
Ăn
cơm chúa, múa tối ngày.
Có
người lại nói:
-
Ăn cơm chúa
dễ bội thực. Có thể bị... động kinh!
Nguyễn
Dư
(Lyon,
6/2016)
(1)-
Les
Grands Dossiers de L’Illustration, Le livre de Paris, 1993, tr. 77,
78.
(2)-
Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr. 605-607.
(3)-
Tôn Thất Bình, Đời sống trong Tử Cấm Thành, Đà Nẵng,
2014, tr.16, 17.
(4)-
R. Orband, Le Huế de 1885, in BAVH, 1-1916, tr. 82.
(5)-
Thơ
Đường, tập 1, Văn Hoá, 1987, tr. 238.
(6)-
Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng Hợp Đồng Tháp,
1990, tr. 108.
(7)-
Nhiều tác giả, Trò chơi dân gian Việt Nam, TP Hồ Chí
Minh, 1990, tr. 60.
(8)-
Toan Ánh, Phong lưu đồng ruộng, Xuân Thu, 1990, tr. 82.
(9)-
Lê Quý Đôn,
Vân đài loại ngữ, bản dịch của Tạ
Quang Phát, tập 2, Văn Hoá Thông Tin, 1995, tr. 156. |