Institut
Bouddhique Truc Lâm - Trúc Lâm Thiền viện
Colloque
sur "Bouddhisme et culture" & Hội thảo về "Đạo Phật và
văn hóa"
5/6/2016
---
Đạo
Phật trong
văn
học dân gian Việt Nam
(Le
bouddhisme dans la littérature populaire
du
Viet Nam)
Nguyễn
Dư
dịch
sang tiếng Pháp: Georges Nguyễn Cao Đức
|
|
Đạo
Phật trong
văn
học dân gian Việt Nam
Nguyễn
Dư
|
Kèm
nhèm quốc ngữ, lang sa
Nôm
na mờ tỏ, nhẩn nha kiếm tìm…
Mời
các bạn dạo chơi vườn hoa Văn học dân gian Việt Nam, cùng
đi tìm đạo Phật trong đời sống của người xưa.
***
I-Đạo
Phật trong tục ngữ, ca dao.
Thời
nào cũng vậy, mối lo lớn nhất của dân ta là "miếng cơm,
manh áo" hàng ngày.
Có
thực mới vực được đạo
Đói
ăn vụng, túng làm càn
Có
miếng ăn, no bụng rồi mới nói đến chuyện tôn giáo, tín
ngưỡng xa vời.
No
nên Bụt, đói nên ma
Dân
gian Việt Nam có ông Bụt (tiếng Phạn là Bu-Đa, tiếng
Hán là Phật). Ông Bụt hiền lành, độ lượng, giúp
đỡ mọi người. Có cơm ăn áo mặc mới hi vọng trở thành
người tốt như Bụt. Đói rét thì dễ trở thành lưu manh,
bất lương.
Trong
thôn xóm, ai ăn ở hiền lành, không chửi bới, đâm chém nhau
thì được khen là Hiền như Bụt.
Tôn
ti trật tự của xã hội phong kiến được đạo Khổng an
bài. Trên là nhà vua, dưới vua là các quan, dưới các quan
là toàn dân.
Quan
lại là những người chuyên dùi mài kinh sử, thi đỗ.
Đỗ
cao thì được làm quan to. Một người làm quan cả họ được
nhờ. Cuộc sống bắt đầu khấm khá.
Ai
đi thi không đỗ thì tiếp tục dùi mài thêm. Thêm
mãi vẫn không được thì đành phải bỏ dở, quay ra sống
với cái vốn chữ nghĩa của mình. Làm thầy đám dân quê.
Thầy bói, thầy thuốc hay thầy cúng.
Quyền
lực của vua không có giới hạn. Cho sống được sống, bắt
chết phải chết. Tất cả đất nước là của vua! Tất cả…
trừ ngôi chùa của làng.
Đất
vua, chùa làng, phong cảnh bụt
Vua
làm gì kệ vua nhưng không được đụng đến ngôi chùa thờ
Phật của dân làng.
Ngoài
ngôi chùa ra, phong cảnh xung quanh là của tất cả mọi người.
Chả ai mang được phong cảnh về làm của riêng. Của vua hay
của bất cứ ai thì cũng như nhau.
Phong
cảnh là của Bụt.
Tả
cảnh chùa Hương, Chu Mạnh Trinh cũng bắt đầu bằng Bầu
trời cảnh Bụt…
Ông
Bụt phù hộ, cứu giúp tất cả mọi người. Cái gì của
Bụt cũng được coi như là của tất cả mọi người
Ông
Bụt còn được dân gian đồng hoá với ông tiên trong truyện
cổ tích.
Thời
kì chiến tranh, loạn lạc thì xã hội đảo điên.
Sách
Thánh
Tông di thảo có Truyện hai Phật cãi nhau:
Sau
trận lụt, tại ngôi chùa kia có hai tượng Phật bằng đất
và bằng gỗ tranh cãi, chê trách nhau. Thấy vậy Phật Thích
Ca tay xách bầu rượu, dáng say lảo đảo, bước ra mắng
cả hai chỉ biết giữ cái hình hài bằng gỗ đất, ngồi
hưởng rượu thịt của dân chúng(1).
Phật
Thích Ca say rượu, mắng Phật đất, Phật gỗ. Đạo Phật
lảo
đảo nhiều lắm rồi.
Xã
hội Hỗn quân hỗn quan. Quan lại, nhà chùa không
còn nghiêm túc như trước kia.
Dân
làng coi thường sư tăng. Gần chùa gọi Bụt bằng anh.
Bây
giờ người ta rủ nhau…
Vào
chùa trải chiếu ra ngồi,
Tay
đàn, miệng lí, chúng tôi lên chùa
Chùa
là nơi thờ Phật, nay trở thành chốn hẹn hò, vui chơi, đàn
hát. Chùa bây giờ thờ thêm nhiều vị khác để chiều lòng
khách thập phương:
Lên
chùa lạy Phật Thích Ca
Lạy
ông Tam Thế vua cha Ngọc Hoàng…
Người
ta phê bình, chỉ trích bóng gió…
Ăn
trộm ăn cướp, thành Phật thành tiên
Đi
chùa đi chiền, bán thân bất toại
Người
ta xì xào khuyên nhau Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với
ma mặc áo giấy. Phải đề phòng hạng người Khẩu
Phật, tâm xà.
Nhưng,
thời kì đen tối nhất, bế tắc nhất của đạo Phật là
thời Pháp thuộc.
Trước
kia, đạo Phật chỉ bị đạo Khổng, đạo Lão lấn át. Bây
giờ, cả ba đạo Phật, Khổng, Lão đều bị đạo Thiên Chúa
tìm cách đẩy ra bên lề xã hội. Đạo Phật bị lâm vào
cảnh Ba thằng đánh một, chả chột cũng què.
Có
rất nhiều bài ca chế giễu đức hạnh của nhà sư:
Mồng
một sư lên chơi chùa
Có
cô yếm đỏ bỏ bùa cho sư
Sư
về sư ốm tương tư
Ốm
lăn ốm lóc cho sư trụi đầu.
Không
có lửa, sao có khói! (dịch câu Il n’y a pas de fumée
sans feu). Bụt trên toà gà nào dám mổ mắt!
Trẻ
con cũng a dua theo người lớn, ê a:
-
Nam mô Bồ tát, bồ hòn
Ông
sư bà vãi cuộn tròn với nhau
Nhiều
câu hát mới, thời thượng được tung ra:
-
Lỗ
miệng thì nói Na mô
Trong
lòng thì đựng ba bồ dao găm
(Rút
gọn lại thành Miệng Nam mô, bụng bồ dao găm)
Dao
găm là poignard của lính Pháp. Poignard được
đựng trong một chiếc gaine bằng da, luồn vào thắt
lưng quần. Găm
là biến âm của gaine. Oger gọi
là dao lưng (dao đeo luồn vào thắt lưng quần) (2).
Vũ
Ngọc Phan sưu tầm được mấy câu có “tư tưởng chống
mê tín của nhân dân"
Con
chim ăn quả bồ nu
Ai
làm nên nỗi, thầy tu đeo xiềng?
-
Thầy tu ăn nói cà riềng,
Em
thưa quan cả đóng xiềng thầy tu(3).
Nước
ta không có quả bồ nu. Chỉ có Nu (phương
ngữ miền Trung) là màu nâu. Cà riềng (phương ngữ miền
Nam) là nói lai nhai, lần khân vẻ như muốn gây chuyện (4).
(Cà
riềng có thể là biến âm của caresser của tiếng
Pháp. Caresser là mân mê, mơn trớn, tán tỉnh ngon ngọt).
Bài
dân ca của miền Trung hay miền Nam kể chuyện một thầy
tu đi tán gái, bị xiềng chân. Tán gái bị phạt
nặng như vậy sao? Thầy tu là ai? Bồ nu là quả gì? Khó trả
lời.
Rất
may, sách 6 truyện - thơ nôm đầu thế kỷ XX , chương
Quốc
phong đệ nhất thi, được khắc in năm 1930, tại Hà Nội,
cũng kể chuyện này (bằng chữ nôm):
Con
chim ăn quả bồ nâu
Ai
làm nên nỗi thầy tu mang xiềng
Thầy
tu ăn nói nhà riêng
Em
thưa quan lớn đóng xiềng thầy tu(5)
Bồ
nu bây giờ là bồ nâu. Cà riềng là nhà
riêng.
Bồ
nâu và nhà riêng… cũng hơi khó hiểu. Tác giả muốn
nói gì?
Phải
nhờ… chữ nôm giải thích giùm!
1)
Chữ Bồ (bồ nâu) viết giống chữ Bồ
của tên nước Bồ Đào Nha.
Bác
sĩ Hocquard kể rằng năm 1884 ông tới thăm linh mục Girod tại
địa phận truyền giáo Nam Định. Thời đó, Bắc kì không
có rượu đỏ (ngày nay gọi là rượu vang, rượu chát). Nho
thì chỉ có nho mọc hoang, quả chua, mùi vị không ra gì. Hàng
năm, có người gửi rượu đỏ từ Hồng Kông sang để linh
mục dùng làm lễ (vin de messe).
Tại
Kẻ Sở, giám mục Puginier có cho trồng thử lúa mì và nho
mang giống từ Âu châu sang. Lúa mì mọc khá tốt nhưng nho
thì chỉ cho ra toàn quả tồi (6).
Chữ
Hán gọi quả nho là bồ hay bồ đào (Đào Duy Anh,
Thiều Chửu).
Quả
nho, rượu nho (rượu đỏ) đã được các nhà truyền giáo
và lái buôn người Bồ Đào Nha mang vào nước Tàu và được
đặt tên là bồ hay bồ đào (quả của nước Bồ Đào
Nha) chăng?
Nhưng,
trong bài thơ Lương Châu từ của Vương Hàn (thời Đường,
thế kỉ VIII-IX) đã có câu Bồ-đào mỹ tửu dạ quang bôi
(Rượu bồ rót chén dạ quang). Nguyễn Hiến Lê chú thích "rượu
bồ-đào là rượu nho, chỉ Tây-vực mới có" (7).
Nếu câu thơ đúng là của Vương Hàn thì quả bồ đã
có từ trước khi người Bồ Đào Nha đến nước Tàu.
Quả
bồ
thời
Đường và quả bồ thời Pháp thuộc là một hay khác
nhau nhưng trùng tên?
Dù
sao thì văn học dân gian Việt Nam cũng đã bắt chước Tàu,
gọi quả nho là quả bồ. Quả bồ nâu (hay
bồ
nu) là quả nho màu nâu (màu đỏ sậm ngả sang tím
đen).
2)
Thầy
tu mang xiềng.
Thời
Pháp thuộc, người tu theo đạo Thiên Chúa (Gia Tô, Cơ Đốc)
được gọi là thầy dòng. Tu theo đạo Phật là thầy tu hay
nhà sư. "Tu" theo đạo Lão biến thể là thầy pháp, thầy cúng
v.v.
Xiềng
hay xích là biến âm của chaîne của tiếng Pháp.
Thầy
tu mang xiềng là một nhà sư bị phạt, bị xích chân, thời
Pháp thuộc.
3)
Ăn
nói nhà riêng.
Nhà
sư bị phạt vì tội gì? Tội Ăn nói nhà riêng. Tội
gì mà lạ vậy?
Thời
Pháp, đạo Thiên Chúa được ưu đãi. Nhà cầm quyền chịu
sự chi phối của nhà thờ.
Nhà
thờ Thiên Chúa giáo được các con chiên gọi là nhà chung
(nhà của chung mọi người). Chống đối, làm ngược lại
nhà chung là nhà riêng. Chơi chữ khá thâm thuý.
Nếu
nhà thờ (nhà chung) được xã hội đương thời xem như tượng
trưng cho cái hay, cái đúng thì đương nhiên nhà riêng (trái
ngược với nhà chung) phải bị xem là tượng trưng cho cái
dở, cái sai.
Nhà
sư phạm tội ăn nói sai, chống đối lại nhà thờ, bị phạt
đóng xiềng.
Thời
Pháp cai trị, không có quan lớn nào dám đụng vào thầy dòng,
nhà chung. Em thưa quan lớn đóng xiềng thầy tu, chắc
chắn thầy tu này là một nhà sư.
Bài
ca của miền Trung hay miền Nam gieo vần (nu, tu) hay hơn bài
của miền Bắc. Ý nghĩa hai bài hơi khác nhau. Một đằng nhà
sư phạm tội tán gái, một đằng phạm tội chống đối đạo
Thiên Chúa. Tuỳ hoàn cảnh, cô gái là dân thường hay là "chỉ
điểm" cho Pháp!
Tôn
ti trật tự cũ của Việt Nam bị thực dân Pháp xoá bỏ.
Nhiều
người bỏ đạo Phật, bỏ thờ cúng ông bà, rửa tội theo
đạo Thiên Chúa. Người ta kháo nhau Theo đạo có gạo mà
ăn. Tuy vậy, cũng có người dám lên tiếng Khóc sư khóc
cụ, phê bình cả đạo Phật lẫn đạo Thiên Chúa bằng"Bài
văn tế của một chú tiểu và một nhà thày khóc điếu nhà
sư và cụ đạo chết đuối vì bị đắm đò". Tác giả mỉa
mai nhà sư và cố đạo đi cứu vớt linh hồn người khác
nhưng không cứu được chính mình (8).
Có
người phỉ báng thô bạo đạo Phật, đạo Thiên Chúa:
Sư
ông đăng đàn, vãi ra kia, tiểu ra đấy
Cố
đạo rửa tội, cha đằng trước, sờ đằng sau
Có
người chán nản, chê trách bọn vọng ngoại, chạy theo Pháp:
Bụt
chùa nhà không thiêng, đi cầu Thích Ca ngoài đường.
Bụt
là Phật. Thích Ca cũng là Phật. Nhưng chê Phật của làng
mình không thiêng, không "hay" bằng Phật của bọn "ngoài đường".
Câu nói rất tế nhị. Bụt là Phật của dân gian. Thích Ca
là Phật của giới trí thức.
Dân
gian chê bọn Múa rìu qua mắt thợ là bọn Giảng kinh
cho Thích Ca.
Câu này bắt chước câu Bảo hoàng hơn vua
(Plus
royaliste que le roi của Pháp).
***
II-
Đạo Phật trong truyện dân gian.
Đức
Phật thường hiện thành ông Bụt.
Bụt
hiện lên giúp đỡ cô Tấm hiền lành mỗi khi cô bị mẹ
con cô Cám độc ác, nham hiểm, tìm cách hãm hại. Kết cuộc
là Tấm được vua lấy làm vợ. Mẹ con Cám phải đền tội.
Cái thiện thắng cái ác.
Bụt
giúp con người chống lại quỷ dữ. Bụt khuyên dạy con người
ngày Tết trồng cây nêu, vẽ cung tên để xua đuổi quỷ.
Đầu
thế kỉ XX, nhiều truyện Tàu (Tây du kí, Tam quốc chí,
Thuỷ hử…) được dịch sang chữ quốc ngữ.
Truyện
Tây
du kí của Ngô Thừa Ân kể lại chuyến đi Ấn Độ thỉnh
kinh Phật đầy vất vả của nhà sư Huyền Trang, đời Đường.
Từ một sự kiện lịch sử có thật Ngô Thừa Ân đã tưởng
tượng, thêu dệt thành một truyện phong thần, phù phép của
đám đệ tử của Phật, Lão, Ngọc Hoàng, thần tiên, ma quỷ.
Đọc
Tây du kí ai cũng phục tài chú khỉ Tôn Ngộ Không đi mây
về gió, biến hoá như thần. Lúc thì đại náo thiên cung,
khi thì khuất phục ma vương. Ai cũng nhớ vanh vách các chiến
công của Tôn Ngộ Không, quên cả mục đích của thầy Đường
Tăng là đi thỉnh kinh Phật.
Ngoài
ra, còn có truyện Phật bà Quan Âm Thị Kính, Phật
bà Quan Âm Nam Hải và Phật bà Quan Âm Hương Sơn
được lưu hành, phổ biến tại nước ta.
Xin
tóm tắt sự tích 3 bà Phật Quan Âm.
1-
Phật bà Quan Âm Thị Kính
Bà
Thị Kính là con gái nhà họ Mãng ở nước Cao Li, được cha
mẹ gả cho Thiện Sĩ.
Một
hôm, Thiện Sĩ đọc sách, thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi may
vá bên cạnh, thấy cằm chồng có sợi râu mọc ngược, bà
cầm dao định cắt. Bất ngờ Thiện Sĩ thức giấc. Tưởng
vợ muốn hại mình, Thiện Sĩ hoảng hốt kêu la cầu cứu.
Thị
Kính bị bố Thiện Sĩ trả lại cho Mãng ông.
Bà
buồn khổ, cải dạng đàn ông, bỏ nhà đi tu. Được đặt
pháp danh là Kính Tâm.
Gần
chùa có ả Thị Mầu tính tình lẳng lơ. Từ ngày thấy mặt
tiểu Kính Tâm, Thị Mầu đem lòng yêu mến và tìm cách quyến
rũ nhưng không được.
Thị
Mầu tằng tịu với tên đầy tớ, rồi có chửa. Bị dân
làng bắt vạ, Thị Mầu đổ tội cho Kính Tâm. Kính Tâm bị
dân làng đánh đập. Sư cụ phải đứng ra xin.
Sư
cụ đuổi Kính Tâm ra ở dưới mái tam quan.
Đẻ
con ra, Thị Mầu mang đứa bé đến chùa bắt Kính Tâm nuôi.
Vài
năm sau, Kính Tâm chết. Lúc khâm liệm, mọi người bàng hoàng
thấy chú tiểu Kính Tâm là con gái. Tất cả các nỗi oan của
bà Thị Kính được minh giải.
Bà
Thị Kính đắc đạo, trở thành Phật bà Quan Âm Thị Kính.
Truyện
Quan
Âm Thị Kính rất gần đời sống trần tục, không có
điều gì huyền bí.
Dân
gian đã gói ghém ý nghĩa của truyện bằng thành ngữ Oan
Thị Kính.
Một
số chùa nước ta thờ tượng Quan Âm tống tử, tạc
hình bà Thị Kính bế đứa bé (con Thị Mầu), bên cạnh có
con vẹt (Thiện Sĩ).
Ai
là tác giả văn bản nôm truyện Quan Âm Thị Kính? Có
người cho rằng truyện đã được một tác giả khuyết danh
của thế kỉ XVIII soạn. Nhưng theo Hoa Bằng thì truyện Quan
Âm Thị Kính
đã được Nguyễn Cấp soạn vào giai đoạn
đầu thế kỉ XIX, thời Minh Mệnh (9).
Ngày
nay có vài bản Truyện Quan Âm Thị Kính được
lưu truyền. Trong số này có bản được Thiều Chửu chú giải
công phu theo giáo lí nhà Phật (10).
Truyện
có mấy câu thơ được truyền tụng:
-
Sông
kia
còn có kẻ dò,
Lòng
người ai dễ mà đo cho cùng
(Lời
cha Thiện Sĩ trách Thị Kính, được sửa đổi thành câu ca
dao quen thuộc:
Sông
sâu còn có kẻ dò
Lòng
người nham hiểm ai đo cho cùng)
-
Dẫu xây chín bậc phù đồ,
Sao
bằng làm phúc cứu cho một người.
(Tiểu
Kính Tâm trả lời sư cụ lúc nhận nuôi con Thị Mầu. Câu
nói chứng tỏ trò tu hành đã vượt xa thầy).
Bên
cạnh Phật bà Quan Âm Thị Kính dân ta còn thờ Phật
bà Quan Âm Nam Hải và Phật bà Quan Âm Hương
Sơn.
2-
Phật bà Quan Âm Nam Hải
Bà
tên là Diệu Thiện, con vua Diệu Trang, nước Hưng Lâm.
Năm
Diệu Thiện 16 tuổi, vua cha muốn bà lấy chồng để có người
truyền ngôi. Nhưng bà nhất định không chịu. Muốn được
đi tu.
Nhà
vua đành phải chấp thuận cho Diệu Thiện ra tu tại chùa Bạch
Tước. Hi vọng rằng sau một thời gian sống cực nhọc, bà
sẽ xin trở về cung điện. Và cuối cùng sẽ chịu lấy chồng.
Không
ngờ Diệu Thiện quyết chí ở lại chùa tu hành.
Vua
cha tức giận, sai người đốt chùa. Bắt Diệu Thiện về
cung, ép lấy chồng. Nhưng bà vẫn khăng khăng từ chối.
Vua
hạ lệnh đem Diệu Thiện ra chém. Đao vừa giơ lên thì bị
gãy đôi. Vua sai người thắt cổ bà. Trong lúc mê man bất
tỉnh, hồn bà được một con hổ cõng tới Tùng Lâm. Diệu
Thiện được dẫn đi thăm viếng Thập điện dưới địa
ngục.
Lúc
tỉnh lại Diệu Thiện được Phật khuyên đến tu tại núi
Phổ Đà, cù lao Hương đảo, ngoài Nam Hải.
Sau
ngày hại Diệu Thiện, vua Diệu Trang mắc bệnh, sai người
đi tìm danh y. Diệu Thiện giả dạng một nhà sư già đến
xin chữa bệnh cho vua, bảo phải đến Phổ Đà xin mắt và
tay người về làm thuốc.
Vua
sai Triệu Chấn, Lưu Khâm đến Phổ Đà. Diệu Thiện hiến
mắt và tay.
Vua
khỏi bệnh, cùng hoàng hậu đến Phổ Đà tạ ơn.
Được
Diệu Thiện khuyên giải, vua Diệu Trang quyết định bỏ ngai
vàng, cùng hoàng hậu đi tu.
Diệu
Thiện đắc đạo, trở thành Phật bà Quan Âm Nam Hải.
Truyện
Quan
Âm Nam Hải của Tàu pha trộn nhiều tình tiết quái dị,
hoang tưởng.
Phật bà Quan
Âm Nam Hải được giới buôn bán bằng đường biển tôn
thờ.
3-
Phật bà Quan Âm Hương Sơn
Truyện
Quan
Âm Nam Hải được Kiều Oánh Mậu (đỗ phó bảng khoa Tự
Đức Canh Thìn, 1880), phóng tác thành truyện Hương Sơn Quan
Thế Âm(11).
Hai
truyện có nội dung giống nhau. Cùng kể sự tích Diệu
Thiện, con vua Diệu Trang, nước Hưng Lâm. Nhưng Kiều Oánh
Mậu đã thay đổi vài chi tiết:
-
Truyện Hương Sơn Quan Thế Âm xảy ra dưới thời nhà
Trần tại nước ta.
-
Lúc bị thắt cổ, mê man bất tỉnh, hồn Diệu Thiện được
hổ cõng tới chùa Hương Tích (chùa Hương), tại Hương
Sơn của nước ta.
-
Diệu Thiện tu 9 năm tại chùa Hương Tích, nơi
có đặc sản rau sắng:
Trà
mai càng nhắp càng thanh
Càng
canh rau sắng càng lành càng ngon
Bà
đắc đạo, thành Phật Quan Âm Hương Sơn.
Quan
Âm Nam Hải của cư dân biển đảo đã được Kiều Oánh
Mậu Việt hoá thành Quan Âm Hương Sơn của cư dân đồng
bằng.
Là
một nhà khoa bảng nhưng Kiều Oánh Mậu lại quan niệm rằng:
Xưa
nay tiên, Phật, thánh, hiền
Dẫu
cho khốn nạn truân triên chẳng rời
Chữ
rằng tam giáo nhất nguyên
Thích
Ca, Khổng, Lão thánh hiền đời xưa.
Có
lẽ vì vậy mà ông đã chấp nhận cả những điều mê tín
dị đoan của đạo Lão biến thể.
Rốt
cuộc, dân gian nước ta có 3 bà Phật Quan Âm. Bà Thị Kính
người Cao Li, bà Diệu Thiện người Tàu và bà Diệu Thiện
người Việt gốc Hoa.
***
III-
Đạo Phật trong tranh dân gian.
Bên
cạnh 3 bà Phật Quan Âm, dân ta còn thờ thêm 3 bà Mẫu Thượng
Thiên, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn.
Người
ngoại đạo dễ lẫn lộn các bà.
Sách
Imagerie
populaire vietnamienne (Tranh dân gian Việt Nam) của Maurice
Durand (12)
có 2 tấm tranh vẽ truyện Hương Sơn Quan Thế Âm.
1)
Tấm thứ nhất vẽ Diệu Thiện đang quét chùa Bạch Tước
(tr. 442). Cổng chùa có câu đối bằng chữ quốc ngữ:
Dồng
(rồng) thì phun nước
Hầm
(hùm) thời bổ củi
Tranh
vẽ diễn tả mấy câu thơ trong truyện:
Nào
là giẩy quét cửa nhà
Nào
là gánh nước, nào là hái rau
Rồng
thời phun nước tùng khi
Hùm
thời bổ củi, chim thời nhặt rau
Durand
gán nhầm tranh này cho truyện Quan Âm Nam Hải.
(Tranh
Quan
Âm Nam Hải (tr. 443) vẽ Triệu Chấn, Lưu Khâm đến Phổ
Đà xin mắt và tay để làm thuốc chữa bệnh cho vua Diệu
Trang. Tranh có câu thơ nôm:
Mắt,
tay làm thuốc làm thang
Để
về cứu bệnh vua Trang tức thì
Truyện
Hương
Sơn Quan Thế Âm không có tên Triệu Chấn, Lưu Khâm).
2)
Tấm thứ nhì vẽ Diệu Thiện tu tại chùa Hương Tích (tr.
178). Bà ngồi toà sen, có Kim Đồng, Ngọc Nữ (hay Thiện Tài,
Long Nữ) đứng hầu hai bên. Cổng chùa có câu:
Hiêu
(hươu) thời dưng hoa
Hạc
thời tiến quả
Maurice
Durand đã nhầm lẫn, chú thích sai tấm tranh thứ nhì này.
Ông nhầm Phật bà Hương Sơn thành Mẫu Thượng Ngàn
(Déesse de la Forêt) của đồng bóng.
Ở
một chỗ khác (tr. 180) Maurice Durand lại nhầm (Phật bà) Quan
Âm thành Mẫu Thượng Thiên (Déesse Céleste).
Có
một mẹo giúp người xem tranh dân gian khỏi bị nhầm
lẫn:
Thông
thường thì tranh thờ của ta vẽ các Mẫu ngồi võng đào
hay ngai vàng. Chỉ có các vị Phật mới ngự toà sen. Đôi
khi toà sen được thay bằng chữ Vạn viết trên ngực.
Nếu
tranh vẽ một vị ngồi toà sen thì chắc chắn vị đó không
phải là Mẫu của đồng bóng.
Tranh Oger (chỉ
có nét đen) có tấm Quan Âm tống tử và nhiều tấm
vẽ các sinh hoạt của dân gian có nhà sư tham dự như Nhà
sư rước nước (sửa soạn hội làng), nhà sư làm lễ
phá
ngục (lễ Trung Nguyên, Xá tội vong nhân), nhà sư làm
lễ cát đoạn (lễ Kì Yên) v.v.
*
Xin
ngừng.
Khoan
đã… Ngày nay, dân gian nghĩ gì về đạo Phật? Dạ, không
biết! Không dám bàn. Chỉ thấy nước ta bây giờ xây nhiều
chùa sặc sỡ, đắp nhiều tượng cao to. Đứng gần ngửa
cổ nhìn cũng không thấy hết mặt Phật. Có tượng bị sập
đổ ngay trong lúc đang xây đắp.
Nguyễn
Dư
Tư liệu tham
khảo:
(1)
- Thánh Tông di thảo, Văn Học, 2001, tr.17- 20.
(2)
- Henri Oger, Technique du peuple annamite, Hà Nội, 1909.
(3)
- Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ và dân ca Việt Nam, Sử Học,
in lần thứ tư, 1961, tr. 247.
(4)
- Đặng Thanh Hoà, Từ điển Phương ngữ tiếng Việt,
Đà Nẵng, 2005.
(5)
- 6 truyện - thơ nôm đầu thế kỷ XX, Tổng Hợp Thành
Phố Hồ Chí Minh, 2006, tr. 73.
(6)
- Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr.316,
358.
(7)
- Nguyễn Hiến Lê, Đại cương văn học sử Trung quốc,
q 2, Nguyễn Hiến Lê, 1955, tr.208.
(8)
- Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, Mặc Lâm, 1969,
quyển II, tr. 219.
(9)
- Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt
Nam, KHXH, 1976, tr.151.
(10)
- Truyện Quán Âm Thị Kính, Thiều Chửu chú giải,
An Tiêm, 1995.
(11)
- Kiều Oánh Mậu, Hương Sơn Quan Thế Âm chân kinh tân dịch,
1909, bản chép tay của thư viện đại học Yale, Hoa Kì.
* Xin có lời cám
ơn chủ nhân Quán ven đường Huỳnh Chiếu Đẳng đãcho
mọi người sử dụng kho sách của quán.
(12)
- Maurice Durand,
Imagerie populaire vietnamienne,
École française d’Extrême-Orient,
2011, tr. 422, 443, 178, 180.
* * *
|
Le
bouddhisme dans la littérature populaire
du
Viet Nam
Nguyễn
Dư
Traduit
du Vietnamien par Georges Nguyễn Cao Đức
|
" Dans
les méandres du vietnamien et du français
Recherchons et
éclairons simplement pour le plaisir"
Nos convions le lecteur
à parcourir le jardin des écrits populaires du Viet Nam, et à découvrir
le bouddhisme à travers la vie des gens d'antan.
* * *
I
– Le bouddhisme dans les dictons et les chants populaires
De tout temps, se vêtir
et se nourrir ont constitué le souci quotidien principal de notre peuple.
"La religion
ne s'aborde qu'une fois la faim calmée
La faim pousse
à manger à la dérobée, la misère à faire des bêtises"
Sujets de haute volée,
la foi et l'éducation ne peuvent être abordés sans avoir le ventre rempli.
"Rassasié,
on écoute Bouddha, affamé, on écoute les esprits"
Les gens du peuple ont
le "Bụt" (prononcer "boutte"; en sanskrit "buddha", en chinois "fó")
pour le soutenir. Bụt est connu pour sa bonté, sa mesure, et l'aide
qu'Il donne à tout un chacun. Ce n'est qu'une fois vêtu et ayant sa faim
satisfaite que l'on pourra espérer devenir aussi bon que Bụt . L'inverse
nous mènerait à l'instinct de calcul et au manque de conscience. De qui
vit dans l'honnêteté, sans injures ni disputes graves, le voisinage de
son village dira
qu'"il est
bon comme le Bụt" et le complimentera.
La notion de l'ordre
dans la société féodale est issue du confucianisme. Au sommet se situe
la Maison royale, en dessous sont les mandarins, et enfin au dessous de
ces derniers est le reste du peuple.
Les mandarins sont
"versés dans l'étude et le polissage des textes classiques ",
et ont été lauréats des concours triennaux du mandarinat. A des notes
excellentes à un concours correspondent des postes élevés en grade,
et "sur un lauréat d'un concours mandarinal l'ensemble de sa famille
peut
s'appuyer" , et sa vie quotidienne en devient ainsi améliorée. Echouer
à un concours mandarinal oblige à étudier encore mieux les textes classiques.
Mais si la réussite échappe définitivement au candidat, il lui faut
tout abandonner et entamer alors une vie de travail avec pour seul capital
son savoir accumulé, pour se retrouver maître ou professeur au sein
du menu peuple: maître en divination et chiromancie, ou en médecine des
plantes, ou en cérémonies rituelles.
Le pouvoir du roi n'a
pas de limite. A sa mansuétude correspondra la vie sauve, à sa sévérité
correspondra la mort. Tout dans le royaume appartient au roi. Tout…à
l'exception de la pagode du village, car:
"Au Roi
la terre, au village la pagode, à Bouddha le paysage".
Personne ne pourra empêcher
le roi de faire ce qui lui plaît, mais il ne pourra toucher à la pagode
d'un village, où le culte de Bouddha est célébré par les gens du peuple.
A part la pagode elle-même,
le paysage l'environnant appartient à tous, et nul ne pourra s'approprier
cette nature, qu'il soit le roi ou qu'il soit du peuple, car il en est
ainsi. L'espace naturel relève en effet de Bouddha. Ainsi, et en décrivant
le paysage de la Pagode des Parfums au Nord du Viet Nam, Chu Manh Trinh
a-t-il commencé par ces mots :
"Le paysage
relevant de Bouddha…"
Bouddha apporte son assistance
et son aide à tous. Ce qui est à Bouddha est considéré comme appartenant
à tout le monde. De même, et dans les récits anciens, durant les périodes
de guerre et de troubles entraînant la société dans le chaos, Bouddha
est–il assimilé à un ange par le peuple.
L'ouvrage "Les réflexions
de Thánh Tông" inclut le récit suivant: "La dispute des deux
Bouddhas " (1). Dans une pagode, lors d'une grande inondation,
il y avait deux statues de Bouddha faites de terre et de bois qui se disputaient
et se critiquaient. Voyant l'altercation, Sakyamouni apparut, titubant,
avec une gourde de vin à la main, et les réprimanda en leur reprochant
de n'avoir conservé que leur apparence de terre et de bois, pendant qu'ils
se gorgeaient en réalité de l'existence-même de la vie du peuple. Ivre,
Sakyamouni eut des paroles sévères contre les deux Bouddha de bois et
de terre. Le bouddhisme était totalement sens dessus dessous, la société
tombait en déliquescence, et les mandarins tout comme les religieux n'observaient
plus les règles d'antan. Les villageois n'observaient plus le respect
pour les religieux, et utilisaient le vocable de "frère" pour nommer Bouddha,
à l'approche d'une pagode. Dès lors, nul étonnement devant des
gens s'invitant à la pagode dans un but autre :
"Bien assis
sur la natte étalée,
Une cithare dans
les mains et des poèmes à la bouche,
Nous sommes venus
à la pagode"
La pagode, lieu du culte
de Bouddha devient ainsi un lieu de rencontres, de distraction, de plaisir
musical. La pagode accueille en sus d'autres divinités, afin de s'attirer
des fidèles de tout horizon:
"En allant
à la pagode vénérer Sakyamouni,
Je peux également
vénérer le maître des Trois Mondes, et le père l'Empereur de Jade"
Dans cette optique, les
gens chuchotent ce commentaire:
En volant,
en extorquant, on devient Bouddha ou Immortel
En allant au monastère,
à la pagode, on devient handicapé, hémiplégique
Et chacun de murmurer
" Quand
on va avec le Bouddha, on porte une robe de safran; quand on va avec les
fantômes, on s’habille en papier ".
Aussi faut-il se méfier
des gens ayant
"Le Bouddha
à la bouche, le serpent dans le cœur ".
La période la plus sombre,
une vraie impasse, fut celle de la période coloniale française. Auparavant,
le bouddhisme n'était en butte qu'aux pressions et empiètements des doctrines
de Confucius et de Lao Tseu. Mais là, tant Bouddha que Confucius ou Lao
Tseu ont été victimes du christianisme cherchant à les rejeter dans
l'ombre. Le bouddhisme est alors dans une situation pénible, car "A
trois gaillards contre un, si ce dernier n’est pas borgne, il sera estropié
".
Il existe bien des
chants moquant les fausses vertus des bonzes:
Le premier
de l’an, un bonze alla à la pagode,
Une fille au corsage
rouge lui jeta un sort.
Le bonze tomba
éperdument malade d’amour
A se rouler par
terre, jusqu’à perdre ce qui lui restait de cheveux.
Il n'y a pas de
fumée sans feu,
Tant que le Bouddha
trône, quelle poule oserait lui picorer les yeux!
et les enfants, allant
dans le sens des adultes, d'énoncer:
Ô Boddhisatva,
savonnier!
Le bonze et la
religieuse se trouvent bien enroulés ensemble.
nouveaux chants
populaires sont apparus, propagés par l'usage:
Alors que
la bouche psalmodie Bouddha,
Le ventre lui,
contient trois paniers de poignards.
Le poignard (dao găm)
est une arme des soldats français, contenue dans une gaine en cuir fixée
sur la ceinture du pantalon. Le mot găm est la déformation en
vietnamien du mot français 'gaine'. Oger l'appelle, lui, le poignard
du dos car fixé au dos (2).
Vũ Ngọc Phan dans
ses recherches a trouvé quelques lignes illustrant un sentiment anti-religieux
du peuple:
"L'oiseau
mange de l'avocat;
Qui a fait de la
sorte, que le bonze soit mis aux fers?
Le bonze use de
paroles évocatives,
Je prie les autorités
de faire enchaîner ce bonze" (3).
Ce chant populaire étonne,
car il n' y avait pas d'avocatier dans notre pays. Seul y existe le "nu"
(prononcer "nou", terminologie du Centre) qui n'est pas un fruit, mais
la teinte brun foncé, nommé également le "nâu". " Cà riềng"
(terminologie du Sud) signifie des paroles évocatives car rabâchées
avec une volonté de créer un trouble (4). Cà riềng est
possiblement la déformation phonétique du français caresser ;
dans cette langue, caresser signifie – en paroles ou en gestes
– user de termes ou gestes doux, lascifs. Ce chant populaire provenant
du Centre et du Sud du Viet Nam parlerait donc d'un bonze qui se voit condamné
à être enchaîné, ayant fait des avances à une jeune femme. Mais une
telle peine pour de simples avances ? Et qui était le bonze? Bồ nu
est le fruit de quelle plante en réalité? De prime abord, il est fort
difficile d'y répondre.
Heureusement, l'ouvrage
"Six histoires–poésie en écriture démotique, début du 20è
siècle", édité en 1930 à Hà Nôi, nous éclaire en relatant la
même histoire.
"L'oiseau
mange de l'avocat;
Qui a fait de la
sorte, que le bonze soit mis aux fers?
Le bonze a un langage
de maison particulière,
Je prie les autorités
de faire enchaîner ce bonze" (5).
Dans ce cas-ci, deuxième
version d'un même chant populaire, le mot ‘avocat' est inchangé,
mais son écriture vietnamienne est modifiée, Bồ nu devenant
bồ
nâu. Pour sa part, Cà riềng est devenu pour sa part
nhà
riêng. Bồ nâu et nhà riêng… tout cela reste encore
bien difficile à comprendre. Que voulait dire l'auteur? Pour s'y retrouver,
il faut en fait se le faire expliquer en langage issu de l'écriture démotique
vietnamienne, le nôm.
1) "bồ nâu":
"bồ" s'écrit de la même manière que "Bồ", qui est une
partie du nom du Portugal en vietnamien: Bồ Đào Nha
Dans son livre, le
docteur Hocquard a raconté sa visite en 1884 à l'abbé Girod, dans son
diocèse de Nam Định. A cette époque "le Tonkin ne produisait pas de
vin rouge – appelé "vang" en vietnamien actuel – et la vigne n'y
poussait qu'à l'état sauvage avec un goût trop aigre et une saveur tout
à fait quelconque". Chaque année, quelqu'un envoyait de Hong Kong
du vin rouge pour que l'abbé puisse avoir du vin de messe . A Kẻ Sở,
l'évêque Puginier avait fait pousser du blé et de la vigne à partir
de plants apportés d'Europe. Le blé avait plutôt bien poussé, mais
le raisin obtenu était, lui, de piètre qualité. (6). Tant la
vigne que le vin avaient été introduits en Chine par les missionnaires
et marchands portugais. La langue chinoise a donné le nom de bồ
ou de bồ đào au raisin car venant du Portugal (Bồ Đào
Nha en vietnamien), et le nom de bồ đào mĩ tửu
au vin issu du raisin , selon Đào Duy Anh et Thiều Chửu.
Par la suite, et imitant
les Chinois, la littérature populaire vietnamienne a utilisé le mot bồ
pour
désigner le raisin. Le fruit bồ nâu ou bồ nu n'est
donc que le raisin de couleur brun foncé, dans la réalité couleur allant
du rouge foncé au violet.
2) Le bonze mis
aux fers: au temps du protectorat français, les religieux de confession
chrétienne étaient appelés en vietnamien "thầy dòng". Ceux de confession
bouddhiste étaient appelés "thầy tu" ou encore "nhà sư". Ceux suivant
l'enseignement de Lao Tseu étaient appelés "thầy pháp", ou bien "thầy
cúng". Xiềng ou bien xích sont des déformations du mot
français chaîne. Par conséquent, "Thầy tu mang xiềng"
(littéralement, "bonze portant des chaînes"), signifie en français
un prêtre bouddhiste enchaîné, et désigne donc un bonze mis aux fers,
car puni, au temps de la présence coloniale française
3) Langage de maison
particulière (Ăn nói nhà riêng): ce bonze a été puni
pour quelle faute? Celle d'avoir usé d'un langage de maison particulière.
Qu'est cette faute si étrange?
Au temps du protectorat
français, le christianisme disposait d'une place privilégiée. Les autorités
acceptaient les prises de position des églises, et l'Eglise chrétienne
était appelée "la maison commune" par ses fidèles. S'y opposer ou adopter
une attitude d'opposition pouvait alors tenir d'une "maison particulière".
Il s'agit là d'un jeu de mots particulièrement affiné. Si l‘église
chrétienne (la ‘maison commune') était vue par la société de l'époque
comme symbolisant le positif, quelque chose de bien, alors et mécaniquement,
la "maison particulière " était assimilée à quelque chose de négatif,
d'erroné. Le bonze a donc commis la faute d'énoncer une erreur grossière
en s'opposant à l'église chrétienne, faute entraînant sa mise aux fers,
sa mise sous chaînes. Du temps des Français, nul responsable osait se
frotter aux prêtres chrétiens de la "maison commune". Dans le cas évoqué
dans Em thưa quan lớn đóng xiềng thầy tu (‘je prie les
mandarins de faire enchaîner ce prêtre'), ledit prêtre ne peut certainement
être qu'un religieux bouddhiste, un bonze.
La version du chant
populaire originaire du Centre ou du Sud du Viet Nam est supérieure à
celle relevée au Nord, de par sa rime (nu, tu). Le sens des deux
versions de ce chant populaire se différencie quelque peu. Dans une version,
le bonze a fauté en cherchant à séduire une femme; dans l'autre, le
bonze a commis la faute de s'opposer au christianisme. Et selon le cas,
la femme peut être aussi bien les gens du peuple que les protégés des
Français.
L'ordre établi de
l'ancien temps au Viet Nam fut abattu par l'autorité coloniale française.
Nombre de gens abandonnèrent le bouddhisme, délaissèrent le culte des
ancêtres, se firent baptiser comme chrétiens. Et les gens de se dire
"En suivant le christianisme, on a du riz à manger ". Néanmoins,
il y eut des gens ayant le courage d'exprimer leur "peine pour les bonzes
et pour les aînés", et de critiquer aussi bien le bouddhisme
que le christianisme via un texte: la "Discours funéraire d'un bonze
novice et d'un curé pleurant les anciens religieux noyés lors d'un naufrage".
Ce texte ironise sur le fait que tant le bonze que le curé veulent sauver
l'âme des autres, mais n'arrivent même pas à sauver la leur (7).
Il est même des gens
proférant des paroles fortement diffamatoires aussi bien sur le bouddhisme
que sur le christianisme:
"Sư ông
đăng đàn, vãi ra kia, tiểu ra đấy
Cố đạo rửa
tội, cha đằng trước, sờ đằng sau".
Au sens propre :
"Le Bonze
commence la cérémonie, la religieuse se place ici, le novice là bas
Durant le baptême,
le curé est devant, la soeur se place derrière".
Au sens figuré (jeux
de mots):
"Durant
le culte, le bonze fait caca par-ci, pipi par-là
Durant le baptême,
le curé pénètre par devant, attouche par derrière."
Des gens sont excédés,
reprochant à ceux "respectant l'accent étranger "de courir derrière
les Français:
Le Bụt
de la pagode-maison n’est pas sacré, on va prier Sakyamouni dehors dans
la rue.
"Bụt" désigne Bouddha,
tout comme Thích Ca désigne Sakyamouni. Ces paroles sont d'une
délicatesse voulue, car "Bụt" est utilisé par le menu peuple, alors
que "Sakyamouni" est le nom utilisé par la classe éduquée. Et ces paroles
de dénigrer le Bouddha "de chez nous" car il ne serait pas aussi sacré,
aussi "bien" que le Bouddha de la rue, c'est-à-dire "de l'extérieur",
autrement dit le Christ. Les gens du peuple se moquent de ces nouveaux
convertis, qui veulent
Brandir une hache
devant le bûcheron.
et les accusent de
chercher à
Expliquer
les Ecritures bouddhiques à Sakyamouni.
autrement dit d'être
"plus royalistes que le roi".
* * *
II
– Le bouddhisme dans les contes populaires
Bouddha apparaît régulièrement
sous le nom de Bụt. Ce dernier apparaît à la douce Tấm à chaque
fois que celle-ci est en butte aux brimades de la cruelle Cám et de sa
mère, dans un conte. Mais finalement, c'est Tấm qui est choisie par
le Roi pour devenir son épouse. Cám et sa mère paieront pour leur faute.
La bonté et le bien ont raison de la cruauté et du mal
De même, Bouddha incite
les gens à s'opposer à la cruauté. Il recommande à la population de
planter la perche rituelle du Nouvel An devant sa maison, et d'afficher
la calligraphie rituelle, afin de chasser les démons. Au début du 20è
siècle, de nombreux récits chinois tels "Le Voyage en Occident"et
"les Trois Royaumes" ont été traduits en vietnamien moderne.
Le Voyage en Occident
, par Ngô Thừa Ân , rapporte le pèlerinage en Inde sous la dynastie
chinoise des Tang du bonze Huyện Trang pour y vénérer Bouddha, voyage
particulièrement semé d'embûches. A partir de faits normalement historiques,
son auteur a imaginé et brodé une histoire remplie d'envoûtement, de
mystère, et de magie sur les fidèles de Bouddha, de Lao Tseu, de l'Empereur
de Jade (fidèles du taoïsme) , des anges, et des démons.
Les lecteurs du Voyage
en Occident ont tous admiré les talents du singe Tôn Ngộ Không
franchissant monts et cieux, apparaissant et disparaissant comme les génies,
installant le désordre au Palais Céleste ou vainquant le royaume des
démons. A force de lire les exploits de Tôn Ngộ Không mis en exergue,
les lecteurs en oublient que le but du bonze a seulement été d'effectuer
un pèlerinage au pays de Bouddha.
Outre ces récits d'origine
chinoise, il y a également les trois récits relatifs à Quan Âm ou
Kannon,
Déesse (plus exactement Boddhisattva) de la Miséricorde, qu'ont
été Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Nam Hải et
Quan
Âm Hương Sơn, écrits et diffusés dans notre pays.
Tâchons de résumer
ces 3 récits.
1
- Quan Âm Thị Kính, Déesse de la Miséricorde
Thị
Kính était une fille de la famille Mãng, en Corée, et qui a été mariée
à Thiện Sĩ. Un jour, ce dernier s'était assoupi en lisant. En train
de coudre à côté de son mari, Thị Kính remarqua un poil poussant
à l'envers au menton de son mari, et prit un couteau afin de le couper.
Mais Thiện Sĩ se réveilla soudain. Voyant le couteau et croyant que
sa femme avait l'intention de le tuer, il cria et appela à l'aide. Le
père de Thiện Sĩ renvoya Thị Kính dans sa famille. Cette dernière,
rongée par la tristesse désespérée, en vint à se travestir en homme
pour fuir sa famille et entrer en religion, dans une pagode. Elle reçut
le nom de baptême bouddhique de Kính Tâm (Esprit du Respect) et devint
un
novice
A côté de la pagode
vivait une femme du nom de Thị Mầu, de caractère frivole. Dès qu'elle
vit le visage de Thị Kính, elle conçut un vif attachement pour cette
dernière, mais en dépit de ses efforts, ne put la conquérir. Thị Mầu
eut alors une aventure avec un serviteur, pour en tomber enceinte un peu
plus tard. Face aux violents reproches du voisinage, Thị Mầu rejeta
la faute sur Thị Kính. Cette dernière fut battue par les voisins, et
le bonze supérieur de la pagode dut intervenir pour sauver Thị Kính,
pour ensuite la chasser de la pagode et l'installer sous le portail en
triptique du lieu de culte.
Après son accouchement,
Thị Mầu apporta le bébé à Kính Tâm, obligeant cette dernière
à le garder et en prendre soin. A la mort de Kính Tâm quelques années
après, et lors de la mise en bière, on découvrit que le novice
était une femme, à l'effarement et la confusion de tous. Kính Tâm fut
alors lavée de tout oppobre.
Thị Kính/Kính Tâm,
d'une piété parfaite, devint alors la Déesse de la Miséricorde, Quan
Âm Thị Kính. Cette vie de la déesse fut celle de tout le monde
et ne recèle aucun mystère, et le petit peuple a mis en parallèle le
sens profond du récit et la notion d'erreur, la fameuse Erreur sur
Thị Kính (Oan Thị Kính)
Un certain nombre de
pagodes de chez nous vénèrent l'effigie de la déesse, qui la représente
avec un bébé dans les bras, celui de Thị Mầu, avec à son côté
un perroquet (son mari Thiện Sĩ)
Mais qui est l'auteur
de ce récit Quan Âm Thị Kính en écriture démotique vietnamienne ?
D'aucuns disent que c'est l'oeuvre d'un auteur anonyme du 18è siècle.
Mais selon Hoa Bằng, ce récit a été écrit par Nguyễn Cấp au début
du 19è siècle, sous le règne de l'empereur Minh Mạng (8) .
De nos jours circulent
encore des copies de Truyện Quan Âm Thị Kính. Ce récit a
été richement annoté par Thiều Chửu qui l'a commenté sous l'angle
des préceptes bouddhiques (9), et comporte quelques vers encore
adulés:
Un fleuve
peut encore être sondé
Mais un cœur humain,
comment pourrait-on y arriver?
Ces reproches du père
de Thiện Sĩ à Thị Kính disent que rien ne pourra sonder l'esprit
de quelqu'un (dans ce cas-ci, la prétendue tentative de Thi Kinh de tuer
son mari). Lesdits reproches ont eu leur sens modifié pour devenir un
dicton bien connu et signifiant que rien n'égalera le fait de pouvoir
sauver quelqu'un, en l'occurrence le nouveau-né de Thị Mầu dans le
récit:
La profondeur
d’un fleuve peut encore être sondée
Mais la perfidie
d’un cœur, comment pourrait-on l’évaluer?
Même si l’on
construisait un stupa à 9 étages,
Cela n’égalerait
point le salut d’un seul être humain.
Ce dicton composé des
paroles de Thị Kính au bonze supérieur de la pagode – et non de celles
du père de Thiện Sĩ à sa bru Thị Kính - montrent par ailleurs que
le niveau spirituel et la foi de la novice ont dépassé ceux du bonze
supérieur.
2
– Quan Âm Nam Hải, Déesse de la Mer
du Sud
Elle
a pour nom Diệu Thiện, et c'est la fille du roi Diệu Trang d'un pays
nommé Hưng Lâm. Lorsqu'elle eut 16 ans, le roi son père voulut la marier,
afin que le trône ait un successeur. Mais elle refusa énergiquement,
désirant entrer en religion. Le roi se résigna à accepter que sa fille
entrât dans les ordres à la pagode Bạch Tước, en conservant toutefois
l'espoir qu'au bout d'un certain temps de vie pénible, elle reviendrait
au Palais, et se marierait finalement. Contre toute attente, Diệu Thiện
continua fermement de mener une vie pieuse à la pagode. Dans une violente
colère, le roi ordonna d'incendier la pagode. Diệu Thiện fut ramenée
au palais et forcée à se marier. Elle continua de refuser obstinément.
Le roi ordonna alors la décapitation de sa fille. La lame du bourreau
eut à peine le temps de s'éléver qu'elle se brisa en deux. Alors, le
roi ordonna que sa fille soit étranglée. Quand elle perdit connaissance,
l'âme de Diệu Thiện fut transportée par un tigre vers un lieu nommé
Tùng Lâm, et put visiter les Dix Palais de l'enfer. A son réveil, Bouddha
l'incita à se retirer au Mont Phổ Đà, sur l'île des Parfums (Hương
đảo) dans la Mer Du Sud.
Après le supplice
de Diệu Thiện, le roi tombé malade fit mander les meilleurs guérisseurs
disponibles. Diệu Thiện déguisée en vieux bonze se présenta au roi
et lui déclara qu'il lui fallait aller au Mont Phổ Đà, pour y obtenir
des yeux et des mains humains afin d'en tirer un médicament. Triệu Chấn
et Lưu Khâm furent dépêchés par le roi au Mont Phổ Đà, où Diệu
Thiện leur firent don d'yeux et de mains. Rétabli, le roi accompagné
de la reine allèrent au Mont Phổ Đà pour y exprimer leur reconnaissance.
Là, recevant les explications et adjurations de Diệu Thiện, le roi
Diệu Trang décida d'abandonner le trône et d'entrer avec la reine dans
les ordres. D'une piété parfaite, Diệu Thiện est devenue un bouddha
féminin, Quan Âm Nam Hải, la déesse de la Mer Du Sud.
Ce récit sur Quan
Âm Nam Hải, d'origine chinoise, inclut des détails souvent étranges
et fictionnels. La Déesse de la Mer Du Sud est vénérée par le monde
des marins marchands.
3
– Quan Âm Hương Sơn , Déesse de la Montagne
des Parfums
Le récit Quan Âm
Nam Hải a été quelque peu modifié par Kiều Oánh Mậu - reçu
au concours mandarinal en 1880 sous le règne de Tự Đức - pour donner
l'histoire de Hương Sơn Quan Thế Âm (10). La matière
des deux récits est similaire, tous deux évoquant Diệu Thiện, fille
de Diệu Trang, roi d'un pays nommé Hưng Lâm. Cependant, Kiều Oánh
Mậu a modifié certains détails:
- le récit se déroule
cette fois ci sous la dynastie des Trần de notre pays
- lors de la strangulation,
l'âme de Diệu Thiện fut transportée à la pagode Hương Tích (Pagode
des Parfums), sur le mont Hương Sơn (Montagne des Parfums, non loin
de Hà Nôi, chez nous)
- Diệu Thiện resta
9 ans à la pagode Hương Tích, là où existe une plante particulière:
le rau sắng , avec lequel on prépare une excellente soupe, évoquée
ci-dessous:
Plus on
déguste le thé aux fleurs d'abricotier, mieux on l'apprécie
Plus on goûte
de la soupe au rau sắng, mieux on la savoure.
Diệu Thiện a mené
une vie de piété totale, et est devenue la Déesse de la Montagne des
Parfums, Phật Quan Âm Hương Sơn.
La Déesse de la Mer
Du Sud Quan Âm Nam Hải des marins et des cités lacustres a été
vietnamisée par la plume de Kiều Oánh Mậu , devenant la Déesse de
la Montagne des Parfums Quan Âm Hương Sơn des gens des plaines.
Il est à remarquer
que bien qu'étant diplômé du concours mandarinal, Kiều Oánh Mậu
ne pensait pas moins que:
De tout
temps, les immortels, Bouddhas, saints et sages
Dans les pires
difficultés demeurent inchangés.
Il est écrit que
les trois religions avaient une origine commune
Sakyamouni, Confucius,
Lao Tseu, les saints et les sages d’autrefois.
Son esprit large est éventuellement
la raison pour laquelle il accepta tout des erreurs superstitieuses énoncées
par Lao Tseu. Et finalement, le menu peuple de notre pays dispose de trois
Déesses de la miséricorde: Thị Kính la Coréenne, Diệu Thiện la
Chinoise, et Diệu Thiện la Vietnamienne de souche chinoise.
* * *
III
– Le bouddhisme dans l'imagerie populaire
A côté des trois déesses
de la miséricorde, notre peuple vénère en sus trois autres déesses
qui sont la Dame Céleste, La Dame des Eaux, la Dame de la Forêt. Les
non-bouddhistes peuvent facilement les confondre.
Dans l'ouvrage "Imagerie
populaire vietnamienne" de Maurice Durand (11), se trouvent deux
images illustrant l'histoire de la Déesse de la Montagne des Parfums.
1) la première image
montre Diệu Thiện en train de balayer la pagode Bạch Tước, à
la page 442. La princesse, en remplissant une tâche humble, y exprime
ces deux vers en quốc ngữ (vietnamien moderne, en alphabet latin):
Dồng
(rồng) thì phun nước
Hầm (hùm) thời
bổ củi
qui sont en fait les pendants
des deux vers originaux du récit qui, précisément, peuvent fort bien
dépeindre cette image:
Et balayer
la cour, nettoyer les ouvertures,
Et porter l'eau,
et cueillir les légumes.
Le dragon crachant
de l'eau pour nettoyer la maison
Le tigre coupant
le bois, les oiseaux triant les légumes.
Durand a commis l'erreur
d'attribuer l'image de la page 443 à l'histoire de la Déesse de la
Mer Du Sud, version originale chinoise, alors qu'il s'agit de la version
vietnamisée par Kiều Oánh Mậu sous le titre de Déesse de la Montagne
des Parfums. L'image montre en effet Triệu Chấn et Lưu Khâm arrivant
à Phổ Đà pour obtenir des yeux et des mains afin d'en extraire le
médicament nécessaire à la guérison du roi Diệu Trang, et porte en
exergue ces vers en écriture démotique:
"Yeux et
mains, pour en faire médicament et onguent
Et obtenir la guérison
du roi Trang promptement"
Le récit la Déesse de
la Montagne des Parfums (Hương Sơn Quan Thế Âm) de Kiều
Oánh Mậu ne mentionne en effet ni Triệu Chấn, ni Lưu Khâm.
2) Le deuxième image
montre Diệu Thiện à la pagode Hương Tich (Pagode des Parfums). Elle
est sur un siège de lotus, avec de chaque côté d'elle deux personnages
nommés Kim Đồng et Ngọc Nữ (ou deux autres personnages ,Thiện
Tài et Long Nữ). Le portail de la pagode porte ces mots:
Le daim
présentant les fleurs,
La grue offrant
des fruits.
Ici, Durand s'est trompé,
car ces mots correspondent à l'histoire de Mẫu Thượng Ngàn
(la Dame de la Forêt) du petit peuple et n'ont rien à voir avec l'histoire
de la Déesse de la Pagode des Parfums
Ailleurs, à la page
180, Maurice Durand se trompe encore, en prenant la Quan Âm Déesse
de la Miséricorde pour Mẫu Thượng Thiên (la Dame Céleste).
S'agissant de l'imagerie
populaire, il existe une astuce pour ne pas se tromper: d'ordinaire, notre
imagerie sacrée montre les "Dames" (Dame de la Forêt, Dame Céleste…)
assises sur un siège creux ou sur un trône doré. Seul Bouddha a droit
à un siège de lotus. Parfois, son siège de lotus est remplacé par l'inscription
"Vạn" ( Dix mille) sur sa poitrine. Un personnage représenté
assis sur un siège de lotus n'est donc en aucun cas une des "Dames" vénérées
par le petit peuple.
Les images d'Oger (toujours
à l'encre noire) incluent une Boddhisattva Quan Âm de la fécondité,
ainsi que nombre de dessins évoquant des activités populaires en présence
de bonzes, tel Nhà sư rước nước (la préparation d'une fête
villageoise ), Nhà sư làm lễ phá ngục (Fête de la
mi-Automne avec libération des âmes errantes), Nhà sư làm lễ
cát đoạn (fête du Kì Yên), etc.
* * *
Arrêtons- nous ici.
Mais encore une petite
seconde, si vous le voulez bien : de nos jours, que pense de Bouddha notre
peuple ?
Mon Dieu, nous ne le
savons pas, en vérité ! Nous n'osons pas en parler, et ne voyons que
notre pays fait ériger de nombreuses pagodes bien flamboyantes avec des
murs bien hauts. Nous avons beau nous en approcher et nous tordre le
cou, impossible de voir le visage de Bouddha. Il est ainsi des murs qui
s'écroulent même durant leur construction.
Nguyễn
Dư
Docteur ès Sciences (Université
de RENNES),
ancien enseignant de l’Ecole Centrale
de Lyon,
spécialisé dans l’étude des
coutumes du VN et de l’écriture Nôm
Références
(1)- Thánh Tông
di thảo, Văn Học, 2001, pages 17 à 20.
(2)- Henri Oger, Technique
du peuple annamite, Hà Nội, 1909.
(3)- Vũ Ngọc Phan,
Tục
ngữ và dân ca Việt Nam, Sử Học, 4è édition, 1961, page
247.
(4)- Đặng Thanh
Hoà, Từ điển Phương ngữ tiếng Việt, Đà Nẵng, 2005.
(5)- 6 truyện
- thơ nôm đầu thế kỷ XX, Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí
Minh, 2006, page 73.
(6)- Docteur Hocquard,
Une
campagne au Tonkin, Arléa, 1999, pages 316, 358.
(7)- Trần Trung Viên,
Văn
đàn bảo giám, Mặc Lâm, 1969, tome II, page 219.
(8)- Cao Huy Đỉnh,
Tìm
hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, KHXH, 1976, page
151.
(9)- Truyện Quán
Âm Thị Kính, Thiều Chửu chú giải, An Tiêm, 1995.
(10)- Kiều Oánh
Mậu, Hương Sơn Quan Thế Âm chân kinh tân dịch, 1909,
exemplaire recopié à la main, Bibliothèque de l'Université Yale, USA
* Remerciements au
propriétaire du Quán ven đường Huỳnh Chiếu Đẳng , qui
autorise tout le monde à utiliser les livres de la bibliothèque de son
établissement
(11)- Maurice Durand,
Imagerie
populaire vietnamienne, École française d'Extrême-Orient, 2011,
pages 422, 443, 178, 180.
* * *
|
|