(Bài này là tư liệu của tác giả dùng
để giảng dạy tại trường Đại
Học Văn Khoa Sài Gòn trước năm 1975)
Năm 1971, chúng tôi cùng với các gs Trần Đăng
Đại và Sơn Hồng Đức thuộc Đại Học Văn Khoa Sài
Gòn dẫn sinh viên đi du khảo di chỉ Óc Eo và vùng trù mật
Ba Thê nằm trong xã Vọng Thê (quận Huệ Đức, tỉnh An Giang.
Nay viết bài này để nhắc lại kỷ niệm với các sinh viên
Văn Khoa xưa kia và cũng để cho nhân dân nhìn thấy thành
quả hiện nay của chính sách phát triển nông thôn thời Đệ
Nhất Cộng Hòa.
Ngày
quốc khánh Song Thất 1959, trong bài diễn văn gởi toàn dân,
TT Diệm tuyên bố : " Năm nay, tôi đề ra công tác lập khu
trù mật tại thôn quê, ở những nơi giao thông thuận lợi,
hợp vệ sinh, có những tiện nghi tối thiểu, để tập hợp
những người nông dân sống lẻ tẻ thiếu thốn...". Bắt
đầu năm 1960, quốc sách khu trù mật được thực hiện một
cách long trọng nhằm qui tụ dân địa phương thành những
vùng cư trú mang sắc thái thành thị để trở thành quận
lỵ hay tỉnh lỵ. Tính cách quan trọng của quốc sách được
đánh dấu bởi chính TT Diệm cũng tham dự vào lựa chọn địa
điểm khu trù mật. Nhân ngày khánh thành long trọng khu trù
mật Vị Thanh- Hỏa Lựu (12-3-1960), TT Diệm tuyên bố nhấn
mạnh đến lợi ích của quốc sách khu trù mật như sau: "
Ý nghiã khu trù mật là xây dựng một xã hội mới để thực
hiện công bằng, bác ái, đồng tiến xã hội với phương
tiện của một nước kém mở mang, thiếu tiền, cán bộ...".
Lý do thiết lập khu trù mật
Rất nhiều tài liệu chính phủ điều nghiên
nhân sinh, kinh tế, chính trị, an ninh đã thúc đẩy sự hình
thành quốc sách khu trù mật [1]
với những mục tiêu sau :
1) Các nông dân sống lẻ loi, thấp kém ở sâu
trong vùng hoang vắng cần được tập hợp lại để chính
phủ có thể cải thiện đời sống tăm tối của họ,
2) Giải tỏa các khu cư trú ổ chuột, lụp sụp,
thiếu vệ sinh bên bờ sông, kênh rạch để đưa họ đến
sống trong khu trù mật với các tiện nghi bảo đảm cho đời
sống,
3) Biến khu trù mật thành động cơ giúp các
vùng nông thôn lân cận cải tiến dân sinh và phát triển kinh
tế;
4) Tạo một đời sống mới trong mỗi khu trù
mật về phương diện :
- xã hội với nhà hộ sanh, trường học, ký
nhi viện...
- kinh tế bằng mở đường giao thông thương
mại với quận, tỉnh lỵ, xây chợ, phát triển công nghệ,
điện khí hóa,
- an ninh như tránh nạn cường hào ác bá.
Theo đuổi những mục đích trên, các khu trù
mật đều đươc thiết lập ở địa điểm thích nghi về
phương diện an ninh, kinh tế, giao thông.
Giai đoạn thực hiện
Với kinh nghiệm rút tỉa từ những khu định
cư dân tỵ nạn và dinh điền, chính phủ có sáng kiến kêu
gọi người dân đích thân tham dự vào công tác xây dựng
khu trù mật mà họ sẽ sống để tránh sai lầm của chính
sách dinh điền. Sai lầm này là vì chính phủ trợ cấp tất
cả chi phí định cư cho nên người dân lợi dụng kéo dài
trợ cấp cá nhân, ù lì, ăn bám trợ cấp... Với chính sách
khu trù mật, chính phủ chỉ cung cấp phương tiện vật chất
như chuyên chở, chi phí dựng nhà, dự trữ lương thực trong
một thời gian ngắn. Công việc của chính phủ là lo xây dựng
hạ tầng cơ sở, dịch vụ cộng đồng và cho khu trù mật
vay dài hạn để cất chợ, trường học, nhà hộ sanh, cơ
xưởng công nghệ... Trợ cấp của chính phủ cho mỗi khu trù
mật là 1 000 000 VN$ và việc thiết lập chia ra từng giai đoạn.
Giai đoạn 1. Chọn địa điểm.
Với sự cộng tác của chính quyền địa phương,
một ủy ban chuyên viên đi tìm kiếm địa điểm phù hợp
với điều kiện thành lập khu trù mật, rồi đề nghị lên
chính phủ. Mục đích chính của chính sách là thành thị hóa
khu trù mật nên sự lựa chọn địa điểm dựa trên các dữ
kiện sau:
- điều kiện giao thông có thể nối khu trù
mật với tỉnh lỵ gần bên,
- có khả năng phát triển thương mại, công
nghiệp và nông nghiệp,
- được bảo vệ an ninh bởi quân đội.
Giai đoạn 2. Phác họa dự án.
Ban giám đốc xây cất chịu trách nhiệm vẽ
đồ án khu trù mật dựa trên tài liệu phúc trình của ủy
ban chuyên viên. Sau khi dự án được chấp thuận, chính phủ
cho xây cất hạ từng cơ sở (đường xá, cầu cống...) và
bổ nhiệm một ban quản trị.
Giai đoạn 3. Định cư
và dựng nhà.
Công việc này được thực hiện dưới hình
thức tương trợ và làm việc tập thể với nguyên tắc là
tất cả dân đều tham dự vào xây dựng khu trù mật. Mọi
người dân đều cùng chung góp sức vào việc dựng nhà, đắp
nền, dọn đất vườn...và tham dự vào công việc chung xây
dựng khu trù mật.
Hình thức cư trú
Khác với địa điểm dinh điền, hình ảnh cư
trú khu trù mật có đặc điểm thành thị và nông thôn cổ
truyền. Cư trú có hoạch định, tập trung, phân lô, đường
lộ kẻ thẳng góc. Đồ án khu trù mật gồm ba khu hoạt
động rõ rệt:
- khu hành chánh (văn phòng ban quản trị, chùa,
thánh đường, trường học, nhà hộ sanh, trạm y tế),
- khu công thương (tiệm buôn, tiệm tạp hóa)
quanh chợ, sát lộ , sông, kênh đào,
- khu cư trú và canh tác cũng được chia thành
lô vuông vắn làm nhà, trồng rau cây trái, chăn nuôi, đào
ao nuôi cá, cấy ruộng sau nhà; trong khi đó, mỗi nông dân
vẫn tiếp tục canh tác ruộng cũ;
- số dân cư đông khoảng 10 000 người (theo
lý thuyết);
- quê quán là người dân địa phương lân cận
hành nghề thương mại, công nghệ, nông nghiệp...
Thành quả
Tính từ ngày 7 tháng 7 năm 1959 đến ngày 30
tháng 6 năm 1963, chính phủ đã thành lập 26 khu trù mật và
10 ấp trù mật, định cư 9127 gia đình, khai thác 6 706 Ha đất.
Dưới đây là bảng phân phối khu và ấp trù mật trong các
tỉnh trên đồng bằng Cửu Long.
Tỉnh |
Khu trù mật |
Ấp trù mật |
|
|
|
An Xuyên |
Khai Quang, Khánh Bình |
|
Ba Xuyên |
Hòa Tú, Cái Trầu |
|
Chương Thiện |
Vị Thanh, Hỏa Lựu, Phước Long, Ngọc Hà |
|
Kiên Giang |
Thanh Hòa |
Mỹ Phú, Sơn Hà |
An Giang |
An Long, Hạc Phong, Thạch Lâu |
|
Vĩnh Bình |
An Trường, Long Vĩnh |
Ngã Ba |
Vĩnh Long |
Cái Sơn, Tân Lược |
|
Kiến Hòa |
Thành Thới, Thới Thuận, Hàm Long, An Hiệp |
|
Định Tường |
Hậu Mỹ, Mỹ Phước Tây |
Phú Mỹ |
Kiến Tường |
Bình Thành Thôn, Thụy Đông |
|
Long An |
Đức Huệ |
|
Biên Hòa |
Hang Nai |
|
Kiến Phong |
|
An Long, Phú Thạnh,Bè Ngàn, Gõ Mười Tài, Vườn
Tãi, Vườn Tràm |
|
|
|
Một số khu trù trở thành quận lỵ như khu
Thanh Hòa (Kiên Giang), khu Thụy Đông (nay là quận lỵ Tuyên
Nhơn, Kiến Tường), thành tỉnh lỵ như khu Vị Thanh (Chương
Thiện).
Tuy địa điểm các khu dinh điền được lựa
chọn ở vị trí tiện giao thông, thương mại, canh tác để
cải tiến dân sinh, nhưng vì nhu cầu chiến lược cấp bách
nên đa số chiếm vị trí tiền đồn đối diện với vùng
hoang vắng và xâm nhập cộng sản. Đơn cử vài thí dụ sau.
Khu trù mật núi Ba Thê, núi Trọi (An Giang) án
ngữ hành lang xâm nhập cộng sản từ mật khu Thất Sơn về
vựa lúa An Giang, Kiên Giang.
Khu trù mật Cái Sơn (Vĩnh Long) chặn đường
xâm nhập cộng sản từ mật khu Vĩnh Bình vào Vĩnh Long.
Khu trù mật Vị Thanh-Hỏa Lựu kiểm soát thủy
lộ chánh từ Cà Mau đi Cần Thơ và đối diện với cả khu
rừng tràm, rừng sát của U Minh.
Khu trù mật Thụy Đông (Kiến Tường) tập hợp
dân các ấp Nước Trong, Ngã Cây, Xóm Mới, Bến Kè nhằm kiểm
soát giao thông thượng lưu sông Vàm Cỏ Tây, đầu kênh Lagrange
và Trà Cú Thượng.
Khu trù mật Mỹ Phước Tây (xã Mỹ Phước Tây,
quận Khiêm Ích, Định Tường) nằm giữa kênh Tổng Đốc
Lộc và kênh Cái Chuối, bảo vệ lộ trình từ Đồng Tháp
về quận lỵ Khiêm Ích, Cai Lạy và quốc lộ 4.
Vì vậy, sau 1963, có khu trù mật như khu trù
mật Đức Huệ (Long An), nhất là các ấp trù mật bị chiếm
đóng và phá hủy bởi cộng sản, thí dụ như ấp trù mật
Phú Mỹ (định Tường), được thiết lập để cô lập hóa
cộng sản vùng ven biên Đồng Tháp bằng cách qui tụ vào ấp
các nông dân sống hẻo lánh dọc theo rạch Láng Cò, Láng Cát.
A. Khu trù mật Vị Thanh
Chính TT Diệm tham dự lựa chọn địa điểm
và có sáng kiến xây dựng khu trù mật Vị Thanh để biểu
lộ quyết tâm thành thị hóa nông thôn của tổng thống. Ngày
12 tháng 3 Năm 1960, tổng thống đích thân đến khánh thành
khu trù mật.
Tại sao chọn địa điểm Vị Thanh?
Xã Vị Thanh là giao điểm của một hệ thống
giao thông quan trọng nối các tỉnh miền Hậu Giang. Vị Thanh
nằm trên :
- tỉnh lộ 31 chạy ngang qua tỉnh Kiên Giang,
Phong Dinh, Ba Xuyên.
- kênh lớn thương mại Xà No nối Cà Mau, Phong
Dinh và Chợ Lớn. Nhờ có kênh Xà No, Cái Nhum, Ông Cai, người
dân ở Vị Thanh có thể lui tới được các vùng bán đảo
Cà Mau và đặc biệt với vùng sình lày U Minh.
Vì vị trí giao thông, thương mại và chiến
lược ngăn chận xâm lăng cộng sản mà địa điểm Vị Thanh
được chọn để sẽ trở thành một tỉnh lỵ kiểm soát
kinh tế, chính trị trên bán đảo Cà Mau.
Thành lập
Sau khi quyết định chọn Vị Thanh, đầu năm
1960, chính phủ phái đến Vị Thanh mấy trăm công chức và
thanh niên tự nguyện làm công việc lên đất nền nhà, đào
mương rãnh dẫn nước, khai hoang cỏ dại, vét sình lày, chia
lô đất... Đồng thời chính
phủ trợ cấp 1 100 000VN$ để hoàn tất dự án sau:
-100 000VN$ : thiết kế đồ án khu trù mật;
-100 000 VN$: mua thuốc men và tổ chức công tác
cộng đồng;
- 600 000 VN$: xây trường học, một bệnh xá,
nhà hộ sanh;
-300 000 VN$: máy phát điện, đào giếng bằng
khoan máy.
Ngoài ra chính phủ cho vay dài hạn số tiền
400 000VN$ để xây cơ sở hành chánh và chợ.
Sau khi xây dựng xong hạ tầng cơ sở, chia lô...
chính phủ khuyến khích các nông dân sống rải rác ở sâu
trong vùng sình lày nước đọng miền rừng sát đến định
cư tại khu trù mật.
Quyết tâm của TT Diệm
Ngày 12 tháng 3 năm 1960, TT Diệm đích thân đến
khai mạc khu trù mật. Từ ngày đó, cộng sản gây áp lực
bằng pháo kích, khiến một số dân bỏ đi.
Để tỏ quyết tâm thực hiện quốc sách trù mật, ngày
24 tháng 12 năm 1961, tổng thống ký sắc lệnh số 244 NV thành
lập tỉnh Chương Thiện, tỉnh lỵ là khu trù mật Vị Thanh.
Tiếp theo, tổng thống chỉ thị bộ chỉ huy sư đoàn bộ
binh đồn trú thường trực tại đó. Hai biện pháp trên khiến
an ninh trở lại, dân chúng an tâm ở lại làm ăn và thúc đẩy
phát triển kinh tế, thương mại một cách nhanh chóng. Theo
thống kê của tỉnh , năm 1972 dân số đã tăng lên 24 391 so
với 18 824 người năm 1961, hoạt động kỹ nghệ có 15 nhà
máy xay lúa, 2 máy in, 4 máy sản xuất nước đá, 1 lò gạch...
Khó khăn chính yếu của khu trù mật là hệ
thống thoát thủy (kênh, rạch, cống rãnh nghẹt vì bùn) nên
gây ra bệnh sốt rét. Năm 1969, chính quyền xây cất bệnh
viện Lê Hữu Sanh trang bị một phòng thí nghiệm nghiên cứu
ngừa bệnh sốt rét và tiêu diệt muỗi anophèles.
Chợ tại khu trù mật Vị Thanh
(hình Sở Thông Tin năm 1960)
(A)      
(B)
Bản đồ xã Vị Thanh trước (A) và sau (B) khi
thành lập khu trù mật
Trạm y tế tại khu trù mật Vị Thanh
(hình Sở Thông Tin năm 1960)
B. Vùng trù mật Ba Thê
Năm 1959, xã Vọng Thê (quận Huệ Đức, tỉnh
An Giang) được chọn làm địa điểm vùng trù mật Ba Thê
gồm 3 khu trù mật : khu trù mật An long bao dưới chân núi
Ba Thê, khu trù mật Hạc Phong bao quanh núi Tượng và khu trù
mật Thạch Lâu bọc núi Chóc.
Địa thế thiên
nhiên và cơ cấu điền địa
Xã Vọng Thê nằm trong vùng trũng thấp, đất
phèn, cấy lúa nổi. Mùa nước lớn, mực nước dâng cao đến
3m có thể làm thiệt hại vụ mùa lúa nổi. Mùa nắng khô
ráo, nước giựt, cỏ vàng khô cháy, lác đác trâu tìm bóng
mát bên gốc cây gáo sơ rơ, đất sét nứt nẻ và mao dẫn
chất phèn lên mặt đất làm hại vụ mùa.
Bốn ngọn núi nhỏ : núi Ba thê, núi Tượng,
núi Trọi và núi Chóc trấn giữ vùng trù mật Ba Thê. Núi
Ba Thê gồm Ba Thê lớn cao 210m, dưới chân có chợ của An
Long và Ba Thê nhỏ nơi đồn trú văn phòng quận Huệ Đức
(1959).
Xã Ba Thê rộng 21 347 Ha gồm :
- đất truất hữu theo dụ số 57 : 2 292Ha,
- đất thuộc điền chủ pháp Noblet : 446Ha,
- công điền : 2 286 Ha
- công thổ : 14 093 Ha,
- thổ cư : 122 Ha.
- diện tích còn lại là rừng tràm.
Để cung cấp đất
ruộng cho vùng trù mật, chính phủ trưng dụng:
- 270 Ha công thổ và đất tư nhân cải bộ thành
công sản quốc gia,
- 250 Ha của 90 chủ điền miên và việt.
Kênh đào
Dưới triều nhà Nguyễn, năm 1818, quan Thoại
Ngọc Hầu cho đào kênh Thoại Hà (từ núi Sập đến Rạch
Giá) và kênh Mướp Văn. Thời Pháp cho đào kênh Ba Thê chạy
qua Ba Thê (12 cây số) và nối với kênh Thoại Hà và kênh
Mướp Văn ở chợ An Long . Công trình dẫn nước rửa phèn,
mở rộng thủy lộ đã thu hút nông dân và các điền chủ
trồng cấy lúa nổi.
Chung quanh núi Ba Thê, một kênh đào tay để
rút nước vào mùa mưa nhưng khô cạn vào mùa nắng khô.
Kênh núi Chóc nối với kênh Ba Thê tới Ba Dầu
trước đào tay rồi được nha Thủy Nông soáy vét.
Kênh núi Tượng (6 cây số) đào năm 1959 gồm
kênh vòng đai từ kênh Ba Thê bọc quanh núi Tượng rồi đâm
trổ ra chợ Ba Thê.
Kênh núi Trọi do điền chủ đào xưa kia để
thoát thủy và chuyên chở lúa.
Khi bắt đầu lập khu trù mật, chính phủ cho
đào tay rồi xáng vét lại các kênh nhỏ trong lòng khu trù
mật dài 1500m.
(A)      
(B)
Xã Vọng Thê trước (A) và sau (B) khi thành lập
vùng trù mật
Lý do chọn Xã Vọng Thê
Lý do kinh tế và quân sự đã đưa đến quyết
định chọn địa điểm vùng trù mật Ba Thê.
Trong thời kỳ chiến tranh (1945-1954), các đại
điền và nhiều đất ruộng bỏ hoang, không thoát thủy vì
phù sa bít kênh rạch nên một lớp phèn dày phủ trên mặt
đất. Chính phủ muốn tập trung dân để tái canh, khẩn hoang
rừng tràm và biến nơi hẻo lánh này thành một thị tứ giống
như khu trù mật Vị Thanh.
Mục đích quân sự là chiếm cứ các ngọn núi
nhỏ làm pháo đài kiểm soát cả một vùng sình lày rộng
lớn và nơi trú ẩn cộng sản trong khu rừng tràm.
Thành lập
Tháng 10 năm 1959, sau khi đã mở rộng đường
giao thông thủy bộ, dự án vùng trù mật Ba Thê đươc thực
hiện gồm ba khu trù mật : An Long, Hạc Phong và Thạch Lâu.
Khu trù mật An Long. Đây là khu trù mật lớn
nhất trong vùng tập trung:
- 508 lô đất làm nhà (mỗi lô rộng 40/60m),
bọc tựa vào chân núi Ba Thê,
- công sở, trường học, công trường, hồ nước,
10 giếng đào, ký nhi viện, vườn ương cây, máy phát điện...
Khu trù mật Hạc Phong có 192 lô nhà bọc quanh
núi Tượng và 101 lô nằm dưới chân núi Trọi. Mỗi lô rộng
40/75m.
Khu trù mật Thạch Lâu, nằm trong ấp Vọng Đông,
có 106 lô đất (mỗi lô rộng 25/60m) bọc quanh núi Chóc.
Năm 1969, vùng trù mật Ba Thê sát nhập với
xã Vọng Thê và trở lại quyền kiểm soát quân đội quốc
gia nên chúng tôi có thống kê năm 1973 của xã Vọng Thê như
sau :
- dân số: ấp Vân Hiệp A chỗ chợ An Long có
553 nhà, 3665 dân; ấp Trung Sơn: 168 nhà, 976 dân; ấp Tân Tây:
458 nhà, 2622 dân.
-giáo dục : một trường
trung học, ấp Tân Hiệp A (1 sơ cấp), ấp Tân Tây (1 tiểu
học, 2 sơ cấp), ấp Trung Sơn (2 sơ cấp), Vọng Đông (4 sơ
cấp), Hạc Phong (2 sơ cấp), Hai Trân (1 sơ cấp).
-y tế : 1 tiểu bệnh xá, 2 trạm hộ sanh, 2 trạm
dự trữ thuốc tây.
-kinh tế. dân chuyên sống về nông nghiệp sạ
lúa nổi vào mùa mưa, đào mương lên líp cao 2m làm vườn
trồng rau cây trái, mùa khô vào rừng tràm khai thác gỗ, đi
làm công, cày gặt, lòi lúa vì diện tích đất khả canh do
chính phủ phát quá nhỏ.
Khó khăn
Khác với khu trù mật Vị Thanh, vùng trù mật
Ba thê gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, khác biệt sắc
dân, tôn giáo...
Diện tích khu gia cư và canh tác quá nhỏ (0,24Ha
ở Ba Thê, 0,3Ha ở núi Tượng), đất thấp không phát triển
được vườn rau, cây trái, mỗi năm chỉ làm một mùa lúa
nổi, năng xuất thất thường, không có thủ công nghệ, mùa
khô thất nghiệp thì vào rừng tràm lấy gỗ, đào đìa bắt
cá lại bị cộng sản ngăn cản.
Về tín ngưỡng, thành phần dân số nhiều dị
biệt chính trị và va chạm tôn giáo. Năm 1973, xã Vọng Thê
có: 4 chùa việt dưới chân núi Ba Thê (2894 tín đồ), một
chùa miên tên Kalbobrưk, một trụ sở phật giáo Hòa Hảo (7995
tín đồ), một thánh thất Cao Đài
(584 tín hữu), một giáo đường (865 tín đồ), đạo ông bà
(470 người).
Chính phủ không tôn trọng được nguyên tắc
thành lập khu trù mật. Trước khi thành lập vùng trù mật,
năm 1959, 5700 dân sống ở xã Vọng Thê. Chính phủ muốn tăng
dân số lên 30 000 người để đáp ứng việc thành thị hóa.
Vì đa số dân chúng địa phương sống nghèo nàn hẻo lánh
không chịu về định cư tại khu trù mật, từ năm 1959 đến
năm 1961, chính phủ phải bỏ nguyên tắc căn bản của quốc
sách khu trù mật bằng cách đưa 8500 di dân quê quán miền
Trung, 2900 dân di cư miền Bắc đến định cư ở khu trù mật
và áp dụng trợ cấp như trong chính sách dinh điền (mỗi
gia đình nhận một lô đất đã đắp nền sẵn, 5000 VN$ làm
nhà, dự trữ gạo, muối mắm cho 6 tháng).
Vì mục đích tối hậu là thành thị hóa vùng
trù mật nên đồ án hoạch định đường xá, kênh đào, nhà
cửa theo đường thẳng. Vì vậy, đồ án đã lấn chiếm ruộng
đất tư nhân của dân địa phương và gây nhiều bất mãn
dù được bồi thường.
Năm 1959, quận lỵ Huệ
Đức đặt dưới chân núi Ba thê nhưng phải rút lui
từ năm 1963 đến 1969 vì vấn đề giao thông tiếp viện và
địa bàn cô lập giữa vùng sình lày rừng tràm, dân thưa
thớt. Một số dân chúng đã rời bỏ vì vấn đề an ninh.
Khu trù mật An Long dưới chân núi Ba Thê (Hình
Nguyễn Huy, năm 1971)
Khu trù mật Thạch Lâu kéo dài tới chân núi
Chóc
(hình Nguyễn Huy, năm 1971)
Quang cảnh vùng trù mật Ba Thê
(hình Sở Thông Tin, năm 1962)
C. Ấp trù mật
Thành lập ấp trù mật trong trường hợp dân
số tập trung không đủ cho một khu trù mật. Trên thực tế,
ấp trù mật nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của tình hình
chiến sự và hoàn toàn không theo tiêu chuẩn quốc sách khu
trù mật. Ấp trù mật nằm ở những vị trí chiến lược,
tập trung dân rải rác sống ở những vùng hẻo lánh về sống
trong một vòng đai của ấp dưới sự bảo vệ của quân đội
quốc gia để cô lập hóa cộng sản tập trung trong vùng sình
lày, lau sậy. Chúng tôi lấy ấp trù mật Phú Mỹ làm thí
dụ.
Xã Phú Mỹ thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định
Tường nằm giữa con đường huyết mạch của đồng bằng
Cửu Long (quốc lộ 4) và cánh đồng lau sậy bát ngát, nơi
đây là mật khu cộng sản huấn luyện cán bộ, dự trữ binh
khí lương thực trong thời kỳ 1945-1954. Sau hiệp định Genève
1954, sự lựa chọn xã Phú Mỹ làm nơi tập kết cán binh cộng
sản lui về Bắc Việt đủ nói nên tầm quan trọng vị trí
chiến lược của xã Phú Mỹ và lập ấp trù mật Phú Mỹ
dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Năm 1959, ấp trù mật Phú Mỹ được thực hiện
trong ấp Phú Xuân (xã Phú Mỹ) ở hạ lưu rạch Láng Cát.
Ấp tập trung 285 người sống rải rác dọc theo rạch Láng
Cát, Láng Cò và ven cánh đồng lau sậy sình lầy.
Mỗi gia đình nhận một lô đất (10/20m), một
số tiền 8000VN$ để làm nhà, một số thuốc men cần thiết
và lương thực gạo mắm. Chính phủ cất văn phòng quản trị
và một trường sơ cấp (3 lớp học). Dân chúng được quyền
ban ngày trở về nhà cũ để bắt cá, gặt mùa, nhưng đến
chiều tối phải trở về nghỉ trong ấp trù mật được phòng
thủ bởi một vòng đai đất cắm chông, gài mìn và dây kẽm
gai. Sau 1963, cộng sản phá ấp trù mật, giải tán dân.
Tiếp theo ấp trù mật là quốc sách ấp chiến
lược nặng tính cách quân sự nên chỉ được đề cập sơ
qua.
D. Ấp chiến lược
Trước nguy cơ xâm lăng của cộng sản miền
Bắc và để đối phó với tình hình chiến sự, TT Diệm tuyên
bố tổ quốc lâm nguy (1961) và ký sắc lệnh số 11 TTP ngày
3 tháng 3 năm 1962 phát động quốc sách ấp chiến lược [2].
Bốn bộ (nội vụ, quốc phòng, giáo dục và cải tiến nông
thôn) được phối hợp chặt chẽ nhăm xây dựng quốc sách
ấp chiến lược dưới chỉ thị của tổng thống.
Mục đích
Ấp chiến lược theo đuổi mục đích quân sự,
kinh tế và cải tiến dân sinh nông thôn. Tuy nhiên, áp lực
xâm lăng cộng sản ngày một tăng khiến mục đích chính của
ấp chiến lược là quân sự nhằm tạo nên một trường thành
ấp chiến lược võ trang chống lại cộng sản.
Mục đích quân sự
Áp dụng đường lối "tát nước bắt cá", chống
bao vây thành thị, dành thế chủ động, bắt dân chọn chiến
tuyến;
-dành thế chủ động bằng thúc đẩy đến
chiến tranh có giới tuyến [3],
-phá thế nhân dân của cộng sản, và dồn họ
vào thế thụ động tập trung bị bao vây bởi phòng tuyến
ấp chiến lược rồi bị tiêu bởi quân đội chính qui, biệt
kích quốc gia;
-ép dân chọn phòng tuyến chống cộng và tránh
tiếp súc tuyên truyền giả dối.
Mục đích chính trị
Hướng dẫn dân làm quen với thể chế dân chủ
bằng cách để dân tự bầu ban trị sự ấp, lập hương ước
dựa vào tập tục, lệ làng mà dân muốn [4].
Mục đích xã hội
-
thực hiện bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật không phân biệt giai cấp xã hội,
-
tạo điều kiện thuận lợi cho ấp chiến lược
cải thiện và thăng tiến xã hội,
-
trên bình diện xã hội, tôn trọng và ưu tiên
tinh thần cộng đồng và định chế xã ấp xưa.
Mục đích kinh tế
Giúp cho ấp chiến lược tiến đến tự phòng,
tự quản, tự túc tạo thành một sợi dây xích vững chắc,
tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội quốc gia rảnh tay
chống xâm lăng.
Sau khi các mục tiêu đươc ấn định, quân,
dân, chính học tập chính trị, đường lối của ấp chiến
lược để phổ biến và giải thích cho công chúng nhất là
cho nông dân. Đồng thời chính phủ tổ chức các nhóm dân
tình nguyện đi thực hiện các ấp chiến lược ở nông
thôn và kêu gọi dân thành thị cũng như nông thôn hợp tác
với chính sách.
Thực hiện
Chính sách ấp chiến lược được tiến hành
nhanh chóng là vì cơ cấu của ấp:
-
dân của ấp là dân sống tại chỗ,
-
địa bàn của ấp có thể là một ấp cũ, nhiều
ấp tụ lại, nguyên một xã cũ nếu có thể qui tụ lại trong
một hàng rào phòng thủ.
Công việc thực hiện trải qua 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1. Tổ chức hệ thống phòng thủ
chiến đấu từ 21 đến 45 ngày. Thực hiện các công tác sau:
- đắp một bờ lũy bằng đất, bên ngoài là
đào hào cắm tre nhọn, giăng dây kẽm gai và hầm chông,
- mở một cổng ra vào dưới sự kiểm soát
của dân tự vệ võ trang,
- đặt hệ thống báo động trang bị bằng còi
tu huýt, thùng hộp sắt trống phát tiếng báo động,
- kiểm tra và thanh lọc dân theo tuổi, tín ngưỡng,
khuynh hướng chính trị,
- đoàn ngũ hóa và tập quân sự dân từ 18 đến
45 tuổi để bảo vệ ấp,
- bầu ban trị sự ấp và lập hương ước trong
vòng 45 ngày.
Giai đoạn 2. Võ trang tinh thần nhằm kiện toàn
dân sự. Huấn luyện chủ nghĩa nhân vị tóm tắt trong ba khẩu
hiệu sau:
- tam túc. Hướng dẫn dân ý thức tự túc quản
trị hành chánh, tự túc tổ chức kỹ thuật, tự túc tư tưởng
về đời sống;
-tam giác. Mỗi người dân tự cảnh giác về
sức khỏe, đạo đức và óc sáng kiến;
- tam nhân. Phát triển con người toàn diện về
bề sâu (thân tâm), bề rộng (nghĩa vụ và quyền lợi đối
với cộng đồng) và bề cao (tâm linh hướng thượng).
Giai đoạn 3. Kiện toàn áp dụng chính sách ấp
chiến lược từ trung ương xuống đến địa phương.
Thành quả
Theo tài liệu của bộ nội vụ, đến tháng
10 năm 1963, chính phủ đã thực hiện được :
- 11 847 ấp chiến lược [5]
trong số đó 8679 ấp đã bầu ban quản trị và 8200 ấp đã
lập hương ước,
-8 972 524 dân trong 8 371 ấp sẵn sàng chiến đấu
chống xâm lăng.
Tiếc rằng chính sách ấp chiến lược hoàn
toàn bị hủy bỏ sau năm 1963.
Thiên nhiên và quốc sách
Đồng bằng Cửu Long
bao gồm các vùng đất phù sa cổ và phù sa mới do hệ
thống sông Cửu Long-Đồng Nai bồi đắp. Chính quyền cũng
như dân chúng thường chia đồng bằng làm hai miền: miền
đông (từ tiền giang về các tỉnh miền đông), miền tây
từ tiền giang đến vịnh thái lan).
Đồng bằng gồm năm vùng đất lớn ảnh hưởng sâu
đậm đến công trình cư dân khẩn hoang lập ấp dưới thời
nhà Nguyễn và Đệ Nhất Cộng Hòa.
Vùng đất cao miền đông Cửu long thuộc các
thềm phù sa cổ rộng và cao ráo nằm trong tỉnh Gia Định,
Biên Hòa, Bình Dương, Hậu Nghĩa, Tây Ninh.
Các vùng trũng đất phèn (Đồng Tháp, Cà Mau),
Vùng trũng đất hữu cơ (U Minh, Cà Mau).
Miền phù sa nước ngọt dọc hai bên sông Tiền,
Hậu.
Vùng đất giồng duyên hải từ tỉnh Gò Công
qua Kiến Hòa, Trà Vinh, Ba Xuyên và chấm dứt ở Bạc Liêu
cách sông Gành Hào 3Km, chịu ảnh hưởng nước mặn. Giồng
là giải duyên hải xưa cũ nằm gần song song với bờ biển [6].
Bảng tóm tắt địa điểm các trung tâm định
cư trên các vùng đất trên cho ta một ý niệm về lý do chọn
lựa các khu định cư của quốc sách
thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
|
Số khu tỵ
nạn miền Bắc |
Số khu
dinh Điền |
Số khu
trù mật |
Phù sa cổ miền Đông |
|
|
|
Sài Gòn |
20 |
|
|
Gia Định |
12 |
|
|
Biên Hòa |
37 |
|
1 |
Bình Dương |
56 |
|
|
Tây Ninh |
14 |
|
|
Phước Tuy |
20 |
|
|
Vùng đất phèn |
|
|
|
Kiến Tường |
|
11 |
2 |
Kiến Phong |
|
8 |
|
Châu Đốc |
|
|
|
An Giang |
15 |
|
3 |
Chương Thiện |
|
|
4 |
Vùng đất hữu cơ |
|
|
|
An Giang |
|
7 |
2 |
Kiên Giang |
|
4 |
1 |
Phù sa nước ngọt |
|
|
|
Định Tường |
10 |
|
2 |
Sa Đéc |
|
|
|
Phong Dinh |
3 |
|
|
Vĩnh Long |
6 |
|
2 |
Phù sa nước lỡ, mặn |
|
|
|
Long An |
9 |
|
1 |
Kiến Hòa |
11 |
|
4 |
Vĩnh Bình |
|
|
|
Ba Xuyên |
1 |
1 |
2 |
Bạc Liêu |
|
|
2 |
|
|
|
|
Nhà và nông địa
Ngày xưa, với quan niệm " nông dã thiên hạ
chi đại bản" [7]
cho nên mỗi năm vào đầu mùa xuân, vua cày ba luống (tam thôi)
ruộng " tịch điền " mở đầu mùa lúa cho dân. Và mỗi người
dân đều ước mơ sở hữu một vuông vườn, một manh ruộng
để có lúa đóng thuế cho vua, có tiền dư dã thờ cúng tổ
tiên, có đất chia cho con cháu phụng dưỡng mình sau này. Ruộng
lúa mang nặng sắc thái tinh thần cũng như vật chất như vậy
nên ưu tư của thôn dân và chính quyền là mở mang nông địa
ruộng lúa.
Nhà và nông địa (vườn và ruộng) tượng trưng
cho thôn dân tự túc, tự cường, biểu hiệu cho phát triển
khẩn hoang lập ấp và định ranh giới cho quốc gia.
Đối với nông dân,
"ruộng
là da, nhà là xương" nên sự lựa chọn cảnh trí cho nhà và
nông địa rất quan trọng cho định cư trường tồn.
Tổng quát, khi đến định cư ở bất cứ vùng
đất nào, nông dân cũng chọn thế đất cao dựng nhà, lên
vườn, có nước ngọt tưới bón rau cải, cây trái. Khởi
đầu, cư trú xã ấp đều uốn lượn theo những thế đất
cao như các giồng ở miền duyên hải, các mảng phù sa cổ
cao ráo ở miền Đông, từ bờ sông vàm rạch đổ vào sâu
trong đất bưng và ngọn rạch (từ xóm vàm vào đến xóm ngọn)...
Nông địa bao gồm tất cả các vùng đất đai
được sử dụng nhằm phục vụ đời sống vật chất của
thôn dân. Nông địa gồm hai loại: nông địa nhân tạo (ruộng,
vườn), nông địa thiên nhiên (rừng tràm, rừng sát, lung đìa...).
Nông địa nhân tạo gồm:
-vườn cây trái, vườn rãy trồng rau, cải trên
đất cao tự nhiên có sa cấu cát dễ cày bừa, thoát thủy
hay vun mô, lên líp. Còn ở vùng phù sa thấp ngập nước, lên
vườn trồng cây trái đòi hỏi nhiều công phu hơn; phải đào
mương lấy đất lên líp, đánh vồng nhằm hạ thủy cấp,
xa chân nước phèn hay mặn để tránh úng thủy và mao dẫn
các khoáng chất độc hại. Cặp theo sông, rạch và kênh đào
nước ngọt, thôn dân phải đào cái xẻo hay mương nhỏ dẫn
nước sông rạch thông thương với mương vườn, mương cá
qua hệ thống " bọng " điều hòa mực nước. Trái lại, xuống
vùng nước lỡ, mặn, lên vườn phải vào sâu trong rạch,
xa sông lớn để giảm ảnh hưởng của độ mặn.
- ruộng. Loại ruộng phân biệt theo địa thế
và cao độ.Thí dụ ở miền Đông,
ruộng gò, ruộng rãy nằm trên mảng phù sa cổ cao ráo,
ruộng triền uốn theo triền mảng phù sa, ruộng sâu hay ruộng
bưng trải trên đất phù sa nhiều sét, ngập nước chỉ cấy
lúa vào mùa mưa vì vấn đề thoát thủy, rửa phèn, muối.
Từ nông địa căn bản đó, nông dân mở rộng nông địa
phụ (trồng khoai, sắn, bắp...) lên vùng đất cao sa cấu cát
nghèo nàn của mảng phù sa cổ hoặc tiến xuống vùng trũng
khai mương rạch đắp bờ cho thoát thủy, hạ độ phèn, muối
để nới rộng diện tích ruộng lúa. Bành trướng nông địa
trồng lúa thường bị ngăn chặn bởi đất ngậm nước có
nồng độ phèn pH dưới 3 và độ mặn trên 4g/lít nước.
Nông địa thiên nhiên là sông, rạch cung cấp
cá tôm, rừng tràm (gỗ, củi, nung than, gác cây lấy mật,
sáp ong, hái lá làm dầu tràm), "động" dừa nước cho lá lợp
nhà.
Phù sa cổ miền đông,
Vào thế kỷ XVII, triều đình đã lập trấn
Gia Định, các cựu thần nhà Minh đã đến cư trú ở Mỹ
Tho, gần tỉnh lỵ Long An. Khi các lưu dân đầu tiên đến
miền đông thì một phần lớn đất đai ở đây còn hoang
dã và rất ít người Miên sống thưa thớt và bỏ đi về
miền dưới như Trịnh Hoài Đức viết " người Cao Miên khâm
phục oai đức của triều đình đem nhượng hết đất rồi
tránh ở chỗ khác, không dám tranh trở chuyện gì" [8].
Cỏ um tùm dưới thấp ngập nước, rừng cây dã thú hùng
cứ trên cao mảng phù sa cổ. Cho đến năm 1904, số dã thú
bị giết là 38 con cọp, 19 con báo, 6 con voi [9]
.
Miền đông, dân Việt đến Biên Hòa-Gia Định,
hướng dần theo các triền của từng mảnh phù sa cổ đất
xám hướng lên phía Thủ Dầu Một và Tây Ninh. Khi di dân đến
đây, việc đầu tiên là định cư trên mảng phù sa cổ cao
ráo dễ thoát nước, phá rừng lấy gỗ làm nhà, cành làm
củi, lấy đất làm vườn, đào giếng lấy nước ngọt. Tiếp
theo dựng nhà, lên vườn là khai thác nông địa trồng lúa
trên các loại ruộng gò, triền, bưng theo truyền thống:
Thượng
gia, hạ điền.
Ruộng gò (ruộng rãy) trên phù sa cổ, sa cấu
cát không giữ nước lâu lại chóng bốc hơi nên dễ mất
mùa, đất xấu nhưng đa dụng. Mùa mưa, cấy lúa sớm, bắt
mạ cho ruộng bưng, mùa khô làm rẫy trồng hoa màu phụ như
đậu phọng, khoai, sắn, bầu bí, thuốc lá.
Ruộng triền nằm suôi theo triền mảng phù sa
cổ, có sa cấu sét pha cát, được bao quanh bởi bờ mẫu cao
giữ nước, cấy lúa (mùa mưa) trồng hoa màu phụ (đậu phọng,
khoai sắn, thuốc lá...) mùa nắng. Nhiều mảnh ruộng triền
có thể canh tác suốt năm thí dụ như trồng đậu phọng có
thể tỉa mỗi năm ba lần : hai mùa thuận và một mùa nghịch
(bắt đầu mùa khô).
Ruộng bưng hay ruộng sâu [10]
dưới triền phù sa cổ, trên phù sa mới pha nhiều đất sét
ngập nước, chứa nhiều chất hữu cơ, thường ẩm ướt
chứa phèn hay muối do mao dẫn, thôn dân canh tác ruộng bưng
(ruộng sâu) vào mùa mưa như lời dạy :
Ra đi cha mẹ dặn dò,
Ruộng sâu thì cấy, ruộng gò thì gieo.
Ngoài ra, thôn dân còn có thể khai thác rừng
sau ấp, bắt cá dưới rạch sâu trong trảng.
Sau khi nhà đã dựng, lúa đã mọc, lưu dân mở
rộng nông địa bằng :
-gia tăng đất trồng lúa. Nông dân xuống bưng,
bàu, trảng phạt cỏ, xẻ mương, đắp bờ khẩn thêm ruộng
trên dải phù sa mới dưới thấp trũng nước làm vụ lúa
mùa mưa, hoặc phá rừng thưa trên đất podzolic xám nghèo nàn
để làm rãy,
- khai thác nông địa thiên nhiên bằng nghề
làm rừng kiếm củi, chặt gỗ làm than...
Từ thế kỷ XVIII, sau khi đã tận dụng nông
địa trồng lúa, nông dân miền Đông
di dân xuống miệt vườn, sông sâu nước chảy. Sự kiện
đó
cho thấy rằng:
-các trung tâm tỵ nạn quan trọng ở miền đông
đều bám vào các thành thị;
- tại sao vắng bóng khu trù mật;
-chỉ có những khu dinh điền nhỏ thưa dân nằm
trên những mảng đất xám nghèo nàn, thiếu đất ruộng canh
tác, thôn dân phải trồng rãy, vào rừng xẻ gỗ bán hoặc
làm than, kiếm củi...Thí dụ định cư tại dinh điền Văn
Hữu để giải thích điều đó. 214 gia đình tỵ nạn gốc
Thanh Hóa Nghệ Tĩnh đến định cư ở Bình Giã (Q. Đức Thanh,
Phước Tuy), được chuyển đến dinh điền Văn Hữu (Q, Châu
Thành, Bình Long) [11].
Năm 1960, chính phủ cho ủi rừng cây để giúp dân có nông
địa sau:
-trồng bắp, khoai, lúa rãy đầu mùa mưa (du
canh kiểu người Thượng) bằng đào lỗ cách nhau khoảng 30cm
rồi bỏ năm, bảy hột vào mổi lỗ,
-mỗi gia đình trồng được 100 cây cao su tháp
giống mã lai.
Còn nông địa thiên nhiên, thôn dân cưa cây
lớn bán cho xe be còn cây nhỏ hầm than bán về Sài Gòn.
Vùng trũng đất phèn
Phân tích bảng phân phối các trung tâm định
cư của quốc sách cư dân cho ta nhận xét sau: hầu hết các
trung tâm quan trọng (về dân số và kinh tế) của định cư
dân tỵ nạn miền Bắc, dinh điền, khu trù mật đều nằm
trong vùng đất phèn. Lý do chính là đất có nồng độ phèn
cao, thiếu phương tiện thủy nông rửa phèn giúp cây lúa mọc
đã ngăn chận bành trướng nông địa theo phương tiện cổ
truyền. Vì vậy, diện tích đất phèn hoang dã mênh mông vẫn
nằm chờ đợi quốc sách của Đệ
Nhất Cộng Hòa.
Trên đồng bằng Cửu Long, đất phèn bao phủ
khoảng một triệu Ha trong các vùng trũng ngập nước nguyên
là biển hay đầm cô lập xưa như
Đồng Tháp. Dưới thời nhà Nguyễn, đất phèn là cản
trở lớn cho mở rộng nông địa và di dân. Phải đợi đến
khi người Pháp đào kênh qui mô rửa phèn, nông địa trồng
lúa mới mở rộng được dọc theo các kênh dẫn nước ngọt
từ sông Cửu đổ vào. Tuy nhiên, đất phèn vẫn còn hoang
dã trên nhiều vùng rộng lớn và chờ đợi quốc sách dinh
điền, khu trù mật và định cư dân tỵ nạn đến khẩn hoang
khai thác. Chính vùng đất phèn hoang dã này đã đánh dấu
thành công quốc sách dinh điền của
Đệ Nhất Cộng Hòa vì đa số các khu tỵ nạn miền
Bắc, khu dinh điền lớn và khu trù mật đều nằm trong vùng
đất phèn có nồng độ pH dưới 3
ở Đồng Tháp, U Minh, Kiên Giang. Nhằm giúp người đọc
hiểu rõ hơn những khó khăn thành lập địa điểm dinh điền
và của người dân sống trong đó. Chúng tôi mô tả lại cư
trú và nông địa của người dân sống tự túc trên đất
phèn để cho thấy nếu không có sự trợ giúp qui mô về tài
chánh, kỹ thuật của chính quyền thì quốc sách định cư
khẩn hoang không thực hiện được.
Đặc điểm đất
phèn
Loại đất quá phèn (nồng độ pH dưới 3) có
sa cấu sét, bùn lày không thấm nước, bị úng thủy ngập
nước mùa mưa, khô ráo nứt nẻ mùa nắng khiến chất pyrite
bị oxyt hóa cho SO4H2 nên pH dưới 3. Nước phèn độc hại
cho nước uống và cây lúa vì chứa sulfate d’alumine Al2(SO4)3
và sulfate sắt Fe2(SO4)3. Vì vậy, cư trú xưa kia không tiến
sâu vào Đồng Tháp và bị giới hạn bởi nồng độ phèn
cao làm hại cây lúa.
Cư trú
Giữa vùng đất phèn, nổi lên những gò sót
cao sa cấu thịt pha cát sỏi, những đồi thấp (núi Ba Thê,
núi Trọi, núi Tượng...) là những nơi cư trú hoặc len trâu
vào mùa nước lớn trong vùng trũng đất phèn. Riêng Đồng
Tháp có nhiều gò đất cao giữa đầm lày. Gò nhỏ thì thu
hút cư trú thành thôn ấp (gò Ba Cảnh, gò Truông Óp, xã Tân
Thạnh, Kiến Phong). Gò lớn nhất là gò Bắc Chiên làm tỉnh
lỵ Mộc Hóa. Trên đất phèn ngập nước này, quốc sách khu
trù mật đã chọn núi Ba Thê làm địa điểm trung tâm của
vùng trù mật Ba Thê, cho đào kênh thoát nước và dẫn nước
ngọt vào rửa phèn, nước uống trông cậy vào nước mưa
trữ trong lu, hũ, khạp nên cư trú của di dân có thể thích
ứng được với địa thế ngập đọng nước phèn. Quan Trịnh
Hoài Đức thời nhà Nguyễn tả Ba Thê như sau: "Cao 3 trượng,
nơi đây 3 ngọn núi trùng điệp, xanh tốt có nhiều cổ thụ
rườm rà...dân cao miên ở theo triền núi và đường rừng,
rạch, đã sinh nghiệp về sự săn bắn, lại theo việc bủa
lưới thả câu ở trong ao đầm thâu hoạch được hai mối
lợi..." [12].
Đào mương hạ
thủy cấp và phèn để lên
líp vườn, nền nhà trên đất phèn
(hình Nguyễn Huy, năm 1972)
Kênh Đồng Tiến dẫn nước ngọt vào giữa
Đồng Tháp
đào dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa
(hình Nguyễn Huy, năm 1972)
Nhà thôn dân trong vùng ngập nước
trồng lúa nổi (hình Nguyễn Huy, năm 1972)
Nông địa
Để nói nên những
nỗi khó khăn và vất vả muôn chiều của di dân đến vùng
này dù với hỗ trợ vật chất của quốc sách, chúng tôi
nêu vài thí dụ cụ thể của nông dân bành trướng nông địa
theo phương thức cổ truyền với nỗi lo sợ quanh năm: mùa
mưa sợ nước dâng mau, mùa nắng sợ " phèn dậy " quá nhiều.
Ruộng lúa sạ được chia thành " cơi " hay "
thiên " (thiên một, thiên hai...). Mỗi thiên dài 1000m. Từ bờ
sông đổ vào sâu bên trong, thiên một tính từ ranh vườn
vào sâu 1000m, tiếp đến là thiên hai...Ranh giới ruộng là
những trụ đá, gốc cây bên đường, bờ rạch, tầm mắt
quen thuộc... vì quanh năm đất ruộng lúa sạ là một tấm
thảm liên tục mút tầm con mắt. Trên những mảnh đất phèn
không cư trú, các người dân sống ở những vàm rạch gần
đó chờ mưa vào tháng lụt lội dưới nước sông Cửu làm
giảm phèn mới đến cấy lúa nổi được. Năm hạn hán hoặc
tiểu hạn kéo dài, chất phèn ít loãng, mùa thất bát. Dễ
mất mùa vì nạn chuột và "chim lá rụng" cả đàn sa xuống
vụt lên là hết lúa.
Tuy nhiên, vùng đất phèn rộng lớn đó không
có cùng một độ acid nghĩa là mỗi cuộc đất lớn có nhiều
độ pH khác nhau nằm xen kẽ nên có chỗ trồng được lúa,
chỗ bỏ hoang cho cỏ lát, cỏ ống mọc như ở khu Tư dọc
kênh Đồng Tiến ở Đồng Tháp. Năm
1970, xã Nhơn Ninh (quận Kiến Bình, Kiến Tường) rộng 7520
Ha, chỉ trồng lúa trên 980 Ha còn lại bỏ hoang vì độ phèn
cao, sâu rầy, chim chuột đầy đồng cỏ.
Muốn chiếm canh một nông địa trồng lúa trên
một " vạc " đất độ phèn thấp, nông dân phải tốn rất
nhiều sức lao động. Thí dụ ở xã Thạnh Trung (quận Chợ
Mới, An Giang), thôn dân đào mương rửa phèn, vớt lục bình
bón vào đất trũng, trồng cây điên điển đầy rễ giữ
phù sa làm cứng đất và giảm phèn. Sau vài năm đất thuần
rồi mới được cấy lúa mà không sợ thất.
Theo kinh nghiệm, thôn dân khẩn những "vạc đất"
mọc nhiều cỏ bông, lau sậy dấu hiệu đất đã cứng, cao
ráo có thể cấy lúa được ngay. Từ đầu tháng giêng đến
tháng ba, vào đốt đồng cỏ, chờ sa mưa dẫn trâu vào cày
và dùng bừa chĩa bừa cho tróc gốc cỏ rồi sạ lúa. Thôn
dân nghèo thì dùng dùi "tỉa lỗ" gieo lúa rồi lấy chà tre
gai lấp các lỗ vừa gieo hạt để tránh chim, chuột phá hoại,
trồng cây điên điển sau nhà để rễ hạ phèn, cành làm
củi.
Trong thời gian cày bừa gặt hái, thôn dân cất
căn chòi nhỏ (trại ruộng) tạm trú lúc làm việc đồng áng,
hoặc cầm trâu lại nuôi, chăn một đàn vịt, bẫy chim cò
cuốc, le le, dí chuột, đào đìa, dăng câu, thả ấu sen trong
lung, láng... Sau mùa lúa chín, cảm thấy vững bụng sống được,
thôn dân bắt đầu xẻ mương lên líp lập vườn, đắp nền
dựng nhà cư trú thường xuyên chăm sóc ruộng đất, lung,
đìa.
Nông địa thiên nhiên
Sống trong vùng trũng đồng
chua nước mặn ở Đồng Tháp, Cà Mau, rừng tràm, đìa
cá thường mang lại lợi tức quan trọng cho nông dân.
Từ xưa, ngoài việc trồng lúa nổi, dân địa
phương sống cạnh vùng trù mật Ba thê còn sống về khai thác
rừng tràm gần đó. Ở quận Kiến Bình (Kiến Tường), các
khoảnh đất có độ phèn cao dành để trồng cây tràm (bán
cây làm nhà, lá làm dầu tràm, gác sào nuôi ong lấy mật).
Bóng cây tràm thu hút cá lóc, rô, trê...cho chài lưới, tát
đìa.
Ngoài rừng tràm, nông địa thiên nhiên đìa
cá là mối lợi lớn của nông dân. Đìa là những nơi trũng,
kín đáo mà cá hay tới lui trú ẩn, tìm mồi. Đến mùa nước
đổ (từ tháng bảy âm lịch), nước từ Kampuchia đổ xuống
tràn đồng cuốn theo cá trôi dạt lên đồng ruộng sanh sống
cho tới mùa "nước dựt" (15 tháng 8 âm lịch đến 15 tháng
11) là tháng cá xuống, lội ngược về xứ chùa Tháp. Một
số cá tìm vào đìa sanh sống. Đến mùa khô, nông dân tát
đìa bắt cá bằng gầu hoặc chụp đìa bằng lưới cho cá
ngộp thở, nổi lên rồi túm lưới lại bắt cá.
Có hai loại đìa chính :
-đìa bưng là những vũng nước sâu tự nhiên
được dân đắp bờ, xẻ họng đìa đón cá.
-đìa đào có đìa lung nằm cạnh lung [13],
đìa đồng đào ở một góc ruộng bao quanh bởi bờ mẫu cao
giữ nước cho cá. Lòng đìa được cắm chà tre gai, me keo,
châm bầu, lá dừa nước và thả rong, lục bình, cỏ ngựa
cho cá được mát. Đìa đào
có kích thước trung bình 6m/12m sâu 2,5m và một họng đìa
quay ra mương ruộng hay phía trũng của đường cá vô đìa.
Dân ở xã Tân Lập (kiến Tường) ngoài nghề
tát đìa, giăng câu, đặt mọp ở bệ cỏ, còn sống nghề
cắt cỏ bàng mọc đầy đồng nước phèn. Cỏ bàng được
neo thành bó đem về giã cho thẳng sợi rồi đương thành từng
đôi đệm 2m/2m. Những lúc rảnh hơn, bơi xuồng đi vào giữa
đám lúa trời [14],
cầm hai thanh tre đập ngọn lúa vào be xuồng cho lúa rụng
vào khoang, móc củ sen, bẫy chích, bắt rùa, dí chuột dùng
đinh ba nhỏ đâm cá...
Vùng đất hữu cơ [15]
Tại U Minh Cà Mau, đất hữu cơ bao phủ khoảng
150 000 Ha, tạo nên "cảnh tối tối, sáng sáng", nổi tiếng
với "muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh bềnh như bánh canh".
Loại đất này có thể dày tới 4m, được cấu tạo bởi
sự tích tụ cây cỏ của rừng sát xưa, thường nằm trên
lớp đất phèn hay hải vật sò hến. Các khu đất có tỷ
lệ hữu cơ cao (than bùn) đều bỏ
hoang. Đất xốp chuồi, năm 1957, chính phủ cho hai xáng
nhỏ đào sâu thêm hai kênh Ranh Hạt nhưng phải bỏ dở vì
đào đằng trước thì đàng sau đất xốp chuồi lấp cạn
ngay. Vì lý do đó mà thiếu bóng khu dinh điền cũng như khu
trù mật trên đất hữu cơ dù diện tích hoang dã rộng lớn.
Cư trú và nông địa.
Sau rừng tràm, là khu hậu rừng sát của cây
choai, ràng dai tiếp theo là vùng cỏ sậy, cỏ năng, thủy cấp
gần mặt đất, phải đào mương thóat thủy mới cư trú canh
tác được. Nói chung, các thôn dân chọn vùng đất đã cứng
cát có lớp mùn mỏng và cây ráng mọc; đầu mùa nắng cắt
cây ráng để khô héo trong nửa tháng, nổi lửa nương gió
mạnh để tiêu diệt cây ráng lấy đấy làm ruộng đầu mùa
mưa. Lửa sẽ làm cháy lớp mùn xốp tỉch trữ nước mưa
nhưng cho tro tốt cấy lúa.
Lấy một thí dụ mở nông địa theo lối cổ
truyền tại làng Đông Thái, Rạch Giá. Một nhóm người từ
long Xuyên xuống men theo bờ biển vào rạch, băng qua rừng
cây mấm, vùng cỏ thấp mọc trên đất phù sa mặn đắng,
rồi dến khu rừng tràm trầm thủy nằm gần U Minh. Đến rừng
tràm, thôn dân đốn cây dựng nhà và lấy đất trồng lúa,
đào mương dẫn nước, lấy đất đắp nền nhà. Mùa mưa,
nước đổ từ U Minh ra biển nên đủ nước ngọt để dùng,
nhưng đến mùa hạn phải đắp đập chận nước mặn [16]...
Rừng tràm là nguồn tài nguyên phong phú cung
cấp sáp và mật ong, cây gỗ (cao từ 15 đến 20m) để làm
nhà hoặc chở đi bán, cành làm củi, lá đem lọc làm dầu
tràm (gomenol), nước ngọt mang màu đỏ, nhiều mùi vị nhưng
uống được. Các địa điểm này đã mang lại cho dân một
đời sống thoải mái như M. Gérard mô tả : " Tại Cà Mau,
đời sống thoải mái, dễ dàng, rừng ngay bên cạnh, những
cây dừa nước cao lớn mọc hai bên bờ sông rạch; đào ao
nuôi cá thật quá dễ. Nhiều rừng thưa rộng lớn, đất lại
dễ cầy cấy. Lúc rảnh đồng áng, vào rừng săn ong lấy
mật, sáp hay chặt cây lấy củi làm than đem bán, hoặc đến
mùa thì chèo mướn..." [17].
Một thí dụ khác đi tìm nông địa như thôn
dân làng Long Trị (Rạch Giá) lập xã ấp đầu tiên. Sơn Nam
mô tả như sau " Một đoàn người từ vùng cao dùng 4, 5 chiếc
ghe xuống đem theo dao, búa, cưa, nồi, chó, lúa... đến sông
Cái Lớn là đất cao, không ngập nước nên rừng gừa mọc
dày bịt cùng với cây bàng, mù u, vẹt, bần... Họ vào vàm
rạch nhỏ, đi quá 6 hay 700m cây rừng thưa dần; vào sâu gần
ngọn rạch là đến vùng sậy đế, đất thấp hơn ngoài ven
sông cái... vùng trong ngọn thuận tiện định cư canh tác nhờ
đất thấp nên mùa mưa đủ nước làm ruộng, và mùa nắng
đắp đập giữ nước ngọt lại, sậy đế dễ dọn, cứ
đốt trước rồi chặt gốc còn lại... vào rừng đốn củi
kiếm mật, sáp ong đem đổi lấy đồ gia dụng".
Những thí dụ trên đủ nói nên khó khăn áp
dụng quốc sách dinh điền tại đây. Dưới thời TT Diệm,
các khu dinh điền như U Minh, Khánh Lâm thiết lập trên đồng
cỏ bao quanh đất hữu cơ Cà Mau là nhờ chọn địa điểm
cư trú trên các dải đất đã cứng cát, dễ khai phá, ít
ảnh hưởng nước mặn, gần rừng để có thêm lợi tức,
cạnh rạch để dễ thông thương và nhất là có thể lên
vườn trồng cây ăn trái.
Vùng nước ngọt (miệt vườn)
Trong vùng nước ngọt "sông sâu, nước chảy"
(Phong Dinh, Sa Đéc, Vĩnh Long, Định Tường), dân cư đông
đúc, đất đai gần như tận khai nên không còn mảnh đất
phù hợp cho dinh điền. Chỉ tiến gần đến nước mặn, đất
cù lao hoang vắng ẩm thấp, nhiều bùn non, dừa nước, bần,
lác mọc um tùm. Muốn khai phá, nông dân phải tốn rất nhiều
công sức. Theo lệ thì trong tường hợp cù lao "mọc" cách
bờ không quá 10 sải bơi thì thuộc quyền sở hữu của các
nhà đối diện bên bờ rồi mới đến người khác; nếu quá
10 sải, mọi người đều có quyền đến cắm cây phân ranh.
Thí dụ năm 1920, làng Tân Thạch (Kiến Hòa)
cho phép mỗi người dân khẩn 5 công (3 600 m2) theo chiều ngang
"dây đất ngang" và tự do khẩn "dây đất suôi" vào xâu bên
trong gần lung, láng, sẽ đóng thuế điền sau 12 năm. Công
việc đầu là dọn dẹp cây cối, trồng thêm lác cho đất
thuần, mau cứng cát và bán lác dệt chiếu. Tiếp theo, thôn
dân đắp bờ bao ngạn dọc theo bờ cù lao để ngăn nước
sông tràn vào. Lúc nước ròng, đẩy xuồng ra lòng sông phía
bờ bồi, móc đất rồi chờ nước lớn kéo xuồng đầy đất
vào bờ. Đất ướt đem phơi khô, dẻ lại mới đem đắp
bao ngạn. Nhằm tránh đất lở, dùng một vỉ tre kẹp sát
vào bờ bao mới đắp, đóng sâu những cây cừ sát vào vỉ
tre. Bờ bao ngạn cứng cát rồi sẽ thành đường giao thông
chạy bọc cù lao. Con đường sẽ được bảo vệ bởi hàng
dừa nước, bần trồng ven sông. Sau cùng, thôn dân dọn "dây
đất suôi" sâu vào bên trong để đắp nền nhà, lên líp vườn,
xẻ mương thoát thủy làm ruộng lúa.
Phù sa nước lỡ và mặn
Vùng phù sa nước lỡ [18]
gần duyên hải, chỉ lác đác có 20 trung tâm tỵ nạn miền
Bắc (Long An, Kiến Hòa) một địa điểm dinh điền tại Ba
xuyên và vài khu trù mật nhỏ như thôn ấp. Lý do chính là
đường nước mặn xâm nhập nội địa, khắp nơi trên giồng
đất cao có chứa nước ngọt đều đã được chiếm cư,
và đất trồng lúa dưới thấp đã được chiếm canh. Muốn
mở mang nông địa trồng lúa thì phải đắp đê, xây cống
ngăn nước biển như người Pháp đã làm tại Gò Công.
Cư trú và nông địa
Thôn dân cư trú trên giồng, cặp theo kênh rạch
nước ngọt hay phân tán trong vùng nước lỡ trồng dừa ở
Kiến Hòa, Bến Tre (xứ dừa) hay trên ruộng cấn giai ở Long
An.
Xuống đến Long An, sự định cư chi phối bởi
đường xâm nhập của nước mặn, sa cấu có chứa nước
ngọt. Vào mùa khô cuối tháng 3, độ mặn trên 4g/l tràn vào
sâu là vì :
-sức nóng mặt trời làm đất khô ráo tạo
thẩm thấu của chân nước mặn tiến sâu vào trong;
-lưu lượng hai sông Vàm Cỏ giảm, gió và thủy
triều đẩy nước mặn vào tràn ngập các địa thế thấp
như ruộng biền dọc theo sông rạch.
Ở phía đông đường liên tỉnh 14, vì vấn
đề nước mặn, nhà cửa lưu dân đầu tiên phân tán trên
vùng ruộng cấn giai cao chứa nước ngọt, xa đường nước
mặn, có thể đào hào, ao ngay cạnh nhà. Nhà nào cũng phải
có hàng lu mái chứa nước mưa xếp hàng sau hè.
Ra đến gần duyên hải, cư trú tập trung trên
các giồng (hình thoi, hình cánh cung, hình tàu lá dừa nước...).Trung
bình giồng rộng khoảng 200m, cao từ 3 đến 4m, dài 1 đến
2Km. giồng ở sâu nhất trong nội địa cách bờ biển 70 cây
số, là giồng Nhị Quí và Cai Lậy (Định Tường) [19].
Giồng biển ở Bạc Liêu dài đến 20 cây số, tại Kiến Hòa,
Ba Xuyên, nhiều giồng nhỏ dài từ 50m đến 100m gọi là "gò
chạy" sa cấu cát nghèo nàn.
Sự chọn lựa giồng làm nơi dựng nhà lập
ấp còn bị ảnh hưởng của khoa phong thủy vì giồng có chứa
nước ngọt (thủy tụ), thế đất cao (dương), dài coi như
long mạch còn gò là "cù dậy" "cù nổi" là đất phát dương
rất tốt cho dựng nhà, xã ấp. Thí dụ trên đất giồng Gò
Công, giồng Nâu và Vạn Thắng là mình rồng, đầu rồng ở
xóm Kiểng, hai chân trước ở xóm Tre và xóm Đập, hai chân
sau ở xóm Bưng và xóm Dinh.
Ở Bạc Liêu, người Tiều gọi giồng nhãn (giồng
biển) là lếng (long) là long mạch đầu ở hướng bắc, đuôi
hướng nam. Nhiều người tiều mang hài cốt cha ông bên Tàu
đem về mai táng.
Nông địa
Nông địa chính là vườn và ruộng lúa. Trên
các giồng, nhờ cao độ và sa cấu nhiều cát, dễ thoát nước,
lên vườn trồng hoa màu phụ (rau cải, dưa, bắp, sắn...),
đào ao chứa nước ngọt, trồng được cây trái đa niên (mãng
cầu, nhãn trên giồng biển Bạc Liêu). Tại xã Mỹ Hòa quận
Cầu Ngan (Vĩnh Bình), thôn dân đào giếng cạn vì nếu đào
sâu quá 15m sẽ gặp nước mặn. Trên đất "rộc" (đất thấp
nhiều sét), thôn dân đào nhiều bào lớn dài tới 500m để
trữ nước ngọt và trồng rẫy (dưa hấu) vào mùa khô.
Dọc theo sông rạch là loại ruộng biền thấp
sình lày thường bị thủy triều tràn vào nên chỉ trồng
được lúa vào mùa mưa.
Sau cùng, dọc theo duyên haỉ thôn dân chỉ sống
nghề hạ bạc :
Chồng chài vợ lưới con câu
Chàng rể đi xúc, con dâu đi nò.
Thôn ấp tập trung ở vàm sông như xóm Đèn
Đỏ, xã Vàm Láng (cửa sông Soài Rạp), ở mỗi vàm rạch
lớn nhỏ dọc duyên hải Cà Mau là trại tôm, xóm lưới, xóm
chài, trại nò, trại đáy.
_____________________________
[1]
- Khu trù mật, Văn Hữu Á Châu xuất bản, Sài Gòn 1960
[2]
- Phỏng theo kinh nghiệm của Mã Lai trong thời gian 1945-
1960.
[3]
- Sách lược cộng sản là thế giằng co không giới
tuyến, tránh mạnh đánh yếu, không đánh trực diện, tập
trung kỹ, tấn công đúng, phân tán mau…
[4]
- Xưa kia, hương ước là lời giao kết giữa dân làng
chép lại thành văn kiện.
[5]
- Không kể 211 buôn chiến lược trên cao nguyên và các
ấp chiến đấu ở vùng xôi đậu.
[6]
- Thái công Tụng, Hiện trạng và triển vọng sự xử
dụng đất đai tại miền nam VN, Sở thông tin quảng bá nông
nghiệp, tr.1
[7]
- Nông nghiệp là nền tảng kinh tế xã hội
[8]
- Trịnh Hoài Đức, Gia Định
Thành… Quyển trung, sđd, tr.7
[9]
- État de la Cochinchine française pendant l’année 1904, imprimerie
commerciale et Reuf, Saigon, 1905, tr. 7
[10]
- Ruộng này còn gọi là đất phát hay trạch điền vì
cỏ mọc um tùm phải dùng phản, cù lèo mà phát cỏ
[11]
- Trứơc kia gọi là Ông Cháy. Căm xe vì toàn là rừng
[12]
- Trịnh Hoài Đức, Gia Định
Thành Thông chí, Nha Văn Hóa,, Phủ quốc vụ khanh dịch,xuất
bản 1972, tập thượng, tr. 71
[13]
- Lung là một đoạn rạch sình lày, nước cạn vào mùa
khô
[14]
- Lúa trời cao 4m, bông ít hột,vỏ đỏ, hột có lông
dài 1cm, hột rụng xuống không thúi, mùa sau mọc lại.
[15]
- Danh từ địa phương : đất mật cật, đất cháy
[16]
- Sơn Nam, Tìm hiểu đất Hậu Giang, Phù Sa, Sài Gòn 1959,
tr.82-86
[17]
- M. Gérard, La région de Cà-Mau vers 1898, BSEI, 3e
trimestre, tr.242
[18]
- Còn gọi là nước pha chè, nước chát, nước hại
[19]
- H, Fontaine, trace d’un ancien rivage marin à Cai Lạy (Sud
VN) VNDCKL no13, fasc.2 Saigon 1970
|