Cái
yếm rất thô sơ, thô sơ nhưng lại rất thơ mộng làm nguồn
cảm hứng cho thi văn lãng mạn và trữ tình tạo nên sắc
thái văn hóa được biểu hiện qua luồng thi văn bình dân
dưới hình thức ca dao rất mộc mạc, dễ hiểu . Thí dụ
như :
Hỡi
cô yếm thắm đeo bùa,
Bác
mẹ có bán anh mua nửa người.
Cái
yếm thì gợi tình được diễn tả bằng thi văn tao nhã, tế
nhị giữa đàn ông và đàn bà đối đáp văn chương hữu
tình với nhau. Đàn ông thường mượn cái yếm để tỏ tình
vì vậy mà cái yếm trở thành chủ đề lãng mạn trong thi
ca tình tứ của dân tộc.
Cách
mặc áo yếm
Áo
yếm che hững hờ trước ngực, vừa kín vừa hở rất là
gợi cảm nên thơ, còn lưng thì để trống. Áo yếm thường
làm bằng một mảnh vải hình vuông, một góc cắt lẹm đi
rồi đính 2 dải vải buộc vào sau gáy. Hai góc trái và phải
cũng đính 2 dải vải gọi là dải yếm, dài đủ dài để
buộc ra sau lưng. Bên ngoài yếm là áo cánh trắng, mỏng được
chiếc thắt lưng giữ với cạp váy. Ngoài cùng khoác áo tứ
thân. Cái yếm ở miền Trung thì có hình tam giác.
Mầu
vải yếm
Yếm
của các bà lao động nghèo thì bằng vải thô, màu nâu. Vào
ngày lễ hội thì yếm đủ màu sắc : yếm trắng, yếm thắm,
yếm hồng bằng nhiễu, chúc bâu, lụa...
Hỡi
cô yếm thắm lòa lòa,
Yếm
nhiễu, yếm vóc hay là chúc bâu.
Hay
là luạ bạch bên Tàu,
Người
cắt cũng khéo, người khâu cũng tài.
Hỡi
cô mặc áo yếm hồng,
Đi
trong đám hội có chồng hay chưa.
Các
loại yếm (1)
Các
thi nhân thường phân loại yếm theo đặc tính của yếm :
yếm
xạ hương, yếm ém trầu, yếm hở lườn, yếm gặp mưa, dải
yếm phải gió...
Yếm
đeo bùa xạ hương
Bùa
là xạ hương
(tỏa mùi thơm như nước hoa ngày nay)
đựng trong cái túi buộc vào cổ yếm. Cô gái có cổ yếm
đeo bùa (túi đựng xạ hương) tỏa ra hương
thơm ái tình (giống như mọi sinh vật trên trái đất)
đứng hàng thứ 5 trong mười thương :
Năm
thương cổ yếm đeo bùa.
Dù
đọc kinh nhắm mắt bịt tai nhưng mũi phải mở để thở
nên nhà sư dễ dàng thất điên bát đảo khi ngửi thấy hương
thơm của bùa đeo ở cổ yếm hòa quyện với mùi da thịt.
Ba
cô đội gạo lên chùa,
Một
cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
Sư
về sư ốm tương tư,
Ốm
lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Bùa
mùi hương của cơ thể ấp ủ trong yếm cũng làm cho chàng
trai si tình phải thốt lên :
Đêm
nằm đắp chục chiếc chăn,
Làm
sao sánh được ấm bằng yếm em.
Vào
ngày mưa gió giá lạnh, anh chàng si tình đã chiếm được
lòng cô gái thì ở nhà ôm dải yếm hít hà mùi hương cơ
thể ấp ủ trong dải yếm mà mơ màng.
Trời
mưa trời gió kìn kìn,
Đắp
đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông.
Cái
yếm ém trầu
"Khẩu
trầu dải yếm " là miếng trầu được " ém " trong
dải yếm đem ra mời người tình.
Khi
chàng trai hợp nhãn đến chơi thì cô gái mời trầu để mở
đầu câu chuyện.
Trầu
em têm tối hôm qua,
Cất
trong dải yếm mở ra mời chàng.
Nàng
có 3 loại trầu : trầu túi (trầu đựng trong túi),
trầu khăn (trầu gói trong khăn), trầu dải
yếm (trầu ém trong dải yếm) và hỏi chàng
rằng :
Trầu
này trầu túi, trầu khăn,
Cùng
trầu dải yếm anh ăn trầu nào ?
Nếu
chàng trai chọn trầu trong túi trong khăn tức ẩn ý chỉ là
bạn hữu. Nếu chàng trai chọn trầu dải yếm tức khẩu trầu
dải yếm có nghĩa đã thuận tình nhau mong cùng nàng kết nhân
duyên thì cô gái mở gói trầu buộc ở dải yếm đem ra mời
chàng. Ăn xong miến trầu thì nàng mới hỏi :
Trầu
em buộc dải yếm đào,
Hỏi
người tri kỷ ăn vào có say?
Cái
yếm mưa gió
Nếu
bất chợt gặp cô nàng mặc yếm mỏng manh giữa trời mưa
gió, thì mắt anh chàng mở to như hai cái tô say mê nhìn cảnh
cái yếm chống lại mưa gió như thế nào.
Gió
đùa yếm thắm đu đưa,
Mưa
rơi ướt yếm, trái dừa đòi ra.
Đến
khi gió nổi to quá, đánh vạt cái yếm thì mắt anh chàng sáng
rực tưởng nàng hớ hênh.
Gió
đánh yếm nàng, gió đè ngực nàng,
Mắt
anh rực sáng vì nàng hớ hênh.
Lúc
đó chàng trai mới tán tỉnh:
Trời
mưa lấy yếm mà che,
Anh
đây đứng gác còn e nỗi gì.
Cái
yếm hở lườn, dải yếm phải gió
Mặc
yếm để lộ ra phần lưng và yếm cắt hẹp lại để hở
hai bên lườn trông thật hấp dẫn và được coi là đẹp
và trữ tình nhất.
Đàn
ông đóng khố đuôi lươn,
Đàn
bà yếm thắm hở lườn mới xinh.
Anh
lái đò rạo rực lúc nhìn thấy yếm để hở lườn, dải
yếm lại phất phơ trước gió, mà cao hứng tán tỉnh cô gái
như thế này :
Thuyền
anh ngược thác lên đây,
Mượn
đôi dải yếm làm dây kéo đò.
Cô
gái biết anh chàng láu lỉnh ghẹo mình nên trả lời :
Ước
gì dải yếm em to,
Để
em buộc lấy mũi đò kéo lên.
Ước
gi dải yếm em bền,
Để
em buộc lấy kéo lên trên bờ.
Mối
tình dải yếm bên sông
Cảnh
dòng sông cách trở đôi bờ cũng làm chúng ta nhớ đến cô
gái mơ tưởng đến người tình mà mơ màng cởi dải yếm
làm cầu cho chàng sang chơi.
Ước
gì sông hẹp bề ngang,
Bắc
cầu dải yếm cho chàng sang chơi.
Còn
anh hàng xóm bên kia sông, ngày ngày thấy nàng phơi yếm mà
gạ gẫm nàng :
Gần
đây mà chẳng sang chơi,
Để
anh ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu.
Khi
nàng đã thuận tình nghĩ đến việc trăm năm thì cô gái mượn
dải yếm mà ấp ủ duyên tình dải yếm bắt đầu bằng câu
trả lời :
Mồng
tơi chả bắc được đâu,
Em
cởi dải yếm bắc cầu anh sang.
Thế
là từ ngày nàng cởi dải yếm, duyên tình dải yếm làm anh
chàng tương tư cái yếm suốt đời.
Ta
về ta cũng nhớ mình,
Nhớ
yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.
Yếm
làm quà tặng
Nhìn
thấy cô gái kia mặc yếm hoa chanh, đó là quà tặng của người
yêu đấy.
Anh
mua cho em cái yếm hoa chanh,
Ra
đường bạn hỏi, nói của anh cho nàng.
Nhưng
chẳng may, tình yêu lại ghé bến sầu, dải yếm đổi mầu
nay thành lỗi hẹn, khiến chàng dỗi hờn đòi lại cái yếm.
Hoa
cúc vàng nở ra hoa cúc tím,
Em
có chồng rồi trả yếm cho anh.
Cái
yếm lỗi hẹn thì trả lời rằng.
Hoa
cúc vàng nở ra hoa cúc xanh,
Yếm
em em mặc, yếm chi anh đòi.
Chiếc
áo yếm làm anh chàng xót thương, tiếc nuối mà nguyện ước
rằng.
Kiếp
sau đừng hóa ra người,
Hóa
ra dải yếm buộc người tình nhân.
Có
cái gì bên trong yếm ?
Bài
thơ " Gái rửa bờ sông " của thi hào Nguyễn Khuyến
tả ông Hà Bá nhìn thấy vật đó bên trong yếm có hình thù
như thế này.
Thu
vén giang sơn một cặp tròn,
Nghìn
thu sương tuyết vẫn không mòn.
Biết
chăng chỉ có ông Hà Bá,
Mỉm
mép cười thầm với nước non.
_______________________________________
(1)
- Tại số 38 Hàng Đào, Hà Nội, còn giữ lại tấm bia đá
ghi lại đây vốn là đình thờ cụ tổ của những người
bán yếm lụa có ghi hàng chữ nho " Đồng lạc quyển yếm
thị " (Ngôi đình của chợ bán yếm lụa ) tức là xưa kia
Hàng Đào là nơi sản xuất và bán yếm lụa và bà Nguyễn
thị Riệu Duyên là tổ sư nghề làm cổ yếm được thờ
ở phố hàng Đào (Nguyễn Thế Long, Đình và đền Hà Nội,
NXB Văn Hóa-Thông Tin, Hà Nội 2005, tr. 28) |