Duyên
Khởi
Một số nhà văn học yêu cầu
tôi viết lại tập hồi ký để họ sưu tầm tài liệu các
văn nhơn thời ấy. Tôi tùy hỷ công đức ấy, ghi chép những
gì còn nhớ lại và nếu tập này giúp ích các quý vị trong
sự sưu tầm, thì cũng gọi là đóng góp cho họ một phần
nhỏ vậy.
Còn nếu trong ký sự có chỗ
nào sai cũng mong quý vị còn lại trong thời ấy bổ sung cho
được hoàn
Xin có lời cảm tạ trước
Hồng ân tự
Ngày đầu hạ Bính dần
1986
Thích nữ Diệu Không
Thời thơ
ấu
(từ 1911
đến 1920- 25)
Năm tôi lên
8 tuổi, được sống dưới mái nhà của dinh Tổng đốc Quảng
Nam rất êm đềm (1).
Từ năm 1905 đến 1911, tính tuổi tây là 7 tuổi, mà tuổi
nam là 8 (vì kể cả từ khi nằm trong bụng mẹ) thì một biến
cố làm tôi nhớ mãi tới nay:
Một hôm, tôi
thấy một số người mặt mũi khôi ngô, tay bị còng lại,
đem vào dinh rồi lại đưa sang nhà lao giam họ ở đó. Tôi
hỏi thầy Đội:
- Họ làm sao
mà bị còng tay? Thầy Đội để tay lên miệng rồi nói nhỏ:
- Họ làm giặc,
bị bắt đem về giam ở nhà lao, họ bị xử án tử hình cả
đấy.
Khi vào ăn
cơm, tôi hỏi Cụ tôi tử hình là thế nào? Ông cụ bảo là
bị "chết chém"
Nói xong, ông
Cụ thở dài, buông đũa đi nằm, khác với mọi lần ông Cụ
rất vui tính.
Mãi đến 10
giờ, bà Cụ tôi bảo, con đem chén sữa này vào ép Thầy uống
nghe. Vâng lời mẹ, tôi qua phòng Cha, thấy im lặng như tờ.
Tôi chờ ông Cụ tôi trở mình, mới mời được, nhưng cụ
chỉ hớp vài ngụm rồi bảo để yên cho Cụ nằm. Cả ngày
hôm ấy, không khí trong nhà thật là buồn. Bà Cụ tôi không
dám nói to, gọi to tiếng.
Đến bữa
cơm, bà Cụ vào mời ông Cụ cùng ăn, vì ngày thường chỉ
có tôi là gái út mới được hầu cơm ông Cụ, còn bà Cụ
thì ăn với các con.
Bà Cụ tôi
hỏi: Mấy hôm nữa thì "xử" họ? Ông Cụ đáp 3 ngày nữa
rồi lau nước mắt và nói:
"Nếu tôi có
mệnh hệ nào, bà hãy đem con về Huế mà nhờ bà ngoại"
Bà Cụ tôi
cương quyết nói!
Ông lo gì,
tôi biết làm ruộng, tôi sẽ dạy các con làm ruộng để sống,
nhưng tìm cách nào để cứu họ khỏi chết mới là phước
đức để lại cho con cái, chứ chết theo họ thì có ích gì?
Ông Cụ làm
thinh đi nằm. Và sau bữa cơm chiều, tôi thấy ông Cụ vội
vã mặc áo đen cũ và ra đi cùng một người nữa đến 9 giờ
đêm mới về nhà ngủ.
Sáng hôm sau,
ông cho gọi Mẹ tôi sang và nói: "Có lẽ yên được, bây giờ
tôi phải đi gấp xuống Tòa sứ. Đến giờ ăn cơm trưa, có
bà Cụ tôi ngồi chờ, và thấy hôm nay, ông Cụ mới ăn một
bữa cơm ngon lành, vui vẻ.
Ông bảo: "Chiều
nay họ sẽ xuống Tòa, và mai mốt họ sẽ về nhà họ, may
quá, Tỉnh này không có đầu nào bị rơi trong số 42 người
cũng còn tiếp tục vì các vụ dân xin thuế...hiện nay Tỉnh
nào cũng có. Mẹ tôi hỏi: "Họ chịu đầu hàng hay sao". Ông
Cụ đáp: "Sau khi vào lao tâm sự với 2 ông Trần Cao Vân và
Thái Phiên, tôi đã nói rõ tình hình không lợi, và nếu các
anh chết hết thì ai là người dạy dân để có trình độ
cao hơn? Xin các anh hãy nhẫn nhục, 10 năm chờ đợi đã và
họ đã nghe ra và chịu xuống Tòa đầu hàng. Chiều nay tôi
phải xuống để bảo đảm họ và nếu có xảy chuyện gì,
tôi xin thay đầu của họ
Bà cụ tôi
cười rồi bảo: "ông thật là táo bạo. cũng từ hôm ấy,
cảnh êm đềm trở lại với gia đình chúng tôi. Mỗi ngày
anh em chúng tôi lại tiếp tục được học Quốc văn với
1 cô giáo, học Hán văn với 1 thầy giáo. Anh chị em chúng
tôi còn học Pháp văn với 1 người Pháp mỗi tuần 2 lần
nữa.
Năm 1913, có
tin Cụ tôi được đổi về làm Thượng thư bộ Học, thay
cho cụ Cao Xuân Dục sẽ về hưu. Lại có tin ông công sứ
Charles cũng được thăng chức về làm Khâm sứ ở Huế. Vậy
là cả gia đình tôi đáp xe lửa ra Huế. Cha tôi thì về Huế
trước để xép đặt chỗ ăn ở. Về đến bộ Học với
chiếc xe ngựa đã đứng đón, họ xếp đồ đoàn vào sau
nhà hậu của công đường, vì 2 chái hai bên gia đình cụ
Cao Xuân còn ở lại chờ ngày làm lễ bàn giao sau đó.
Hai bà trẻ
của cụ Cao ra đón tiếp mẹ tôi và cà nhà vào, bữa cơm
trưa được 2 bà đón tiếp. Ăn xong, tôi được Cha tôi gọi
lên cho đứng hầu quạt, vì 2 cụ không muốn có người lớn
đứng hầu. Vâng lời cha, tôi đã đọc những bài thơ Đường
như bài “Nguyệt lạc ô đề” và mấy bài khác, tôi được
thưởng kẹo bánh và tôi được quạt hầu nghe các cụ nói
chuyện.
Cụ Cao nói:
“Tôi nghe ông đã khéo léo khuyên được số các nhà yêu
nước khỏi bị chết, trong hoàn cảnh qua, tôi rất mừng.
Đề nghị ông về bộ Học mục đích để ông giữ gìn Quốc
sử quán mà tôi đã dày công sáng lập. Sau khi người Pháp
đã thu hết toàn bộ sách vở, tài liệu...quí giá về Pháp,
tôi phải vận động nhờ các ông Thân Trọng Huề, Hoàng Trọng
Phu v.v...chụp bóng lại và trên cơ sở đó tôi đã cho viết
lại từng bộ sách và hiện để tại Quốc tử giám để
con cháu dân ta sau này biết rõ lịch sử nước nhà Việt Nam.
Tôi lại cũng
mong Ông nối ý chí mở việc học hành cho con em ở quốc nội
cũng như được du học . Cụ tôi đáp:
Xin Thầy đừng
lo, tôi đã thảo thư xin lập 1 hội “An Nam du học”, cứ
mỗi năm sẽ cấp học bổng cho học sinh giỏi được sang
Pháp các nước du học, cũng xin Thầy vào chức danh dự hội
và cấp cho vài học bổng.
Cụ Cao đáp:
ở Nghệ An tôi có một học điền để giúp học sinh ưu tú
bản tỉnh, nay có vào hội cũng không khó.
Nhưng ông nên
khéo léo, kẻo mắt bọn mật thám Pháp rất tinh vi, họ mưu
mô lắm đó. Cụ tôi đáp: “Xin Thầy hãy an tâm, mẹ tôi
chết cũng vì tay người Pháp, con cháu ta sau này sẽ còn nhớ
mà lo liệu việc ấy"
Nói đến đó,
2 Cụ thấy tôi đứng đã quá lâu, nên cho nghỉ hầu quạt
và cho người vào bưng mâm xuống nhà.
Và cũng từ
đó, tôi mới biết bà nội tôi bị Pháp giết và càng hiểu
vì sao cứ đến ngày 23 tháng 5 âm lịch là ngày kỵ của bà
nội, thấy ông cụ tôi khóc mãi.
Năm 10 tuổi,
tôi được học trường gần cửa Thượng tứ, sau 2 năm chuyển
qua trường nữ học Đồng Khánh gần trường Quốc học.
Rồi một biến
cố lại đến với gia đình tôi Chị gái tôi sắp sửa phải
vào Nội và tôi phải nghỉ học (1917) ở nhà để lo nội
trợ.
Nguyên 2 cụ
tôi sinh được 9 người con, 3 gái và 6 trai. Hai bà vợ hầu
có 2 gái, 1 gái đã mất, còn 1 gái gả làm dâu cụ Lê Trinh,
1 gái nữa gả cho cha Bửu Hội tức là cụ Ưng Úy
Trong nhà như
vậy chỉ còn 1 chị gái tôi 16 tuổi và tôi 12 tuổi. Cũng
vào thời gian đó vua Duy Tân cũng đã 17. Còn các anh trai tôi
sau khi đậu tiểu tập, được gởi ra học trường tú tài
Albert Sarraut. Cứ mỗi mùa hè, được nghĩ hè, các anh tôi
thường cùng đi với tôi để hầu vua Duy Tân đi nghỉ mát
ở Cửa Tùng. Chị tôi và tôi cũng được đi theo. Ban đầu
chúng tôi không dám đi theo Ngài nhưng sau đó, cứ mỗi sáng
đã lại thấy Ngài gọi cùng đi. Chúng tôi nhận thấy những
khi Ngài ngự du xuân, ngồi trên kiệu vàng thì rất uy nghi,
nghiêm chỉnh, mà sao khi ra chơi, Ngài lại tất bình dân, vui
đùa hồn nhiên, vô sự. Ăn sáng xong, Ngài về nhà nghe thầy
Phụ đạo giảng dạy tiếng Pháp. Buổi chiều, Ngài lại học
chữ Nho với cụ Lê Nhữ Lâm và 5 giờ chiều, lại ra biển.
Chị tôi và tôi ở nhà với Cụ tôi. Buổi tối, Ngài cho mời
Cụ tôi sang đánh cờ và giải quyết công việc ở triều
đình Huế.
Hôm Ngài trở
về Huế, lần nào cuộc chia tay cũng thật bịn rịn. Các anh
tôi đến chào Ngài thật sớm, và đưa ra tận xe, còn 2 chị
em tôi đứng ở xa, chỉ vái chào Ngài. Ngài đưa tay chào lại,
còn ngoái đầu ngó lại. Tình vua tôi, Thầy Trò thân mật
lạ lùng.
Vài tháng sau,
có chiếu của 2 ngài Hoàng Thái hậu ra đòi chị tôi vào hầu
và cho đôi vòng làm kỷ niệm. Kế đó có người trong Đại
nội ra dạy Chị tôi các nghi lễ nhà vua và bảo sẽ xem ngày
lành tháng tốt để làm lễ đưa rước chị tôi vào Đại
nội.
Bỗng cuối
năm ấy lại một biến cố xảy ra bất ngờ. Ngài (vua Duy
Tân) cho đòi cụ tôi vào và nói: “Thầy đã rõ lòng ưu ái
của tôi đối với gia đình, vậy mà nay tôi xin rút lui việc
hôn nhân mà các Hoàng Thái hậu đã định. Tôi chỉ xin Thầy
tìm cho một người cháu gái khác để đưa vào trong ngày cưới
đã định. Tôi chắc Thầy sẽ rõ lòng tôi hơn ai hết..."
Ông Cụ tôi
về nhà, thuật lại mẹ tôi hay và hỏi, "Bà hãy xem có cháu
nào không? Mẹ tôi suy nghĩ một lúc rồi đề nghị: Có con
gái cụ Mai Khắc Đôn, là cháu gọi cụ tôi là ông cậu (vì
Cụ là cậu của Mẹ cô)
Công việc
bàn bạc xong, một tháng sau đúng ngày cưới, Hoàng tộc đưa
bà ấy vào Nội, mà không phải chị tôi. Hai Cụ tôi bàng
hoàng vô cùng và nhất là chị tôi buồn phiền vô hạn.
Mấy tháng
sau, khi vua Duy Tân bị bắt ở gần chùa Thiền Tôn và đem
về giam Ngài ở lầu Tòa khâm Huế. Cụ tôi cũng bị mời
ở lại dưới lầu ấy.
Bà cụ tôi
chuẩn bị đưa các con về làng An Lại để có gạo ăn. Tôi
xin Mẹ tôi được ở lại bộ Học để hàng ngày đi bới
cơm, vị Cụ tôi không quen ăn cơm tây, nên họ cho được
bới xách.
Một tháng
đã trôi qua, tôi hỏi Cụ tôi: “Thầy có được gặp Ngài
không? Cụ tôi đáp: “Họ đương thẩm vấn, riêng từng người
nên không được gặp ai hết"
Về sau, Cụ
tôi cho biết rằng: "chính Ngài đã cứu vớt gia đình ta, nên
đã từ hôn với chị tôi mà không cho Thầy tôi biét lý do
nào cả, thật quá quý". Hôm mẹ tôi ở làng lên thăm, tôi
kể lại, mẹ tôi và chị tôi đều khóc sướt mướt.
Mấy hôm sau,
Thầy tôi cũng được trở về Bộ. Mẹ tôi hỏi Cụ: “Ai
rũ Ngài đi?”. cụ tôi đáp: “Lại 2 ông Trần Cao Vân và
Thái Phiên" mà hồi trước ta đã xin cho khỏi bị chết ở
Quảng Nam. Cũng vì vậy mà họ giam tôi để xét hỏi, may mà
việc này tôi tuyệt nhiên không biết. Còn Ngài thì khai vì
thương nhà mình đông con, sợ bị liên lụy nên tự từ hôn
chứ không cho biết vì sao cả!"
Hai ông Trần
và Thái thì nói "vì khi ở trong lao ở Quảng Nam có hứa với
cụ Hồ Đắc sau mười năm sau mới hoạt động. Nay tuy mới
6 năm, nhưng gặp cơi hội tốt: Pháp đã thua Đức, giao hàng
vạn cây súng vào tay người Việt sắp đi đánh thuê, nếu
Ngài Vua cho một lời chiếu để quân lính quay súng lại, thì
nhất định người Pháp phải rời khỏi Việt Nam. Vì vậy
mà chúng tôi (2 ông Trần và Thái) đã bí mật xin gặp Ngài
ở hồ Tịnh Tâm và định ngày khởi nghĩa. Không ngờ có
người phản bội chỉ điểm, nên Ngài bị bắt. Vậy chúng
tôi xin hoàn toàn chịu tội".
Cũng nhờ những
lời khai trên mà tôi (Cụ tôi) được vô tội nhưng với điều
kiện tìm cho được 1 ông vua khác, đừng có đầu óc cách
mạng thì mới tha tội cho tôi.
Sau những lời
nói ấy, mẹ tôi suy nghĩ hồi lâu mới nói: "Vậy cái ông
Hoàng mà tôi thường gặp ở chùa Tây Thiên, là rể của cụ
Trương Như Cương đó, con người thích đeo vòng, đeo nhẫn
như đàn bà đó, ông nghĩ sao?
Ông Cụ tôi
mừng quá nói, “Ừ, phải khi vua Đồng Khánh mất, ông ta
còn nhỏ quá, cho nên họ không tôn lên thay, mà tôn vua Thành
Thái, Duy Tân là con cháu Ngài Dục Đức".
Sáng hôm sau,
Cụ tôi sang tòa Khâm đề nghị ông Hoàng Cả thì người Pháp
họ đồng ý ngay. Họ lại còn giao cho cụ tôi phải thảo
tờ trình về cái án của vua Duy Tân.
Ông Cụ tôi
về nhà, lở khóc, lở cười, chiều hôm ấy Cụ chỉ nằm
khóc bỏ cả cơm nước. mẹ tôi phải an ủi, động viên mãi,
ông Cụ mới ngồi dậy và suốt đêm hôm đó, cụ ngồi mãi
viết hoài...đại để bản án hay ở chỗ là khen Vua có lòng
ái quốc, chỉ vì tuổi còn nhỏ, nên đã làm sai đường lối
mà nước Pháp muốn mở mang cho Việt Nam, cho nên xin người
Pháp hãy nghĩ tình mà tha thứ. Bản án có lý, có tình rất
thống thiết nên được duyệt y(2).
Ngày Cụ tôi
đi chào Ngài lần cuối, Vua tôi nhìn nhau thật lâu, rồi nghẹn
ngào cụ tôi nói: "Xin Ngài giữ gìn sức khỏe".
Ngài cười
và gởi lời chào tạm biệt các bạn trẻ nữa. Cụ tôi về
nhà nằm khóc 2,3 hôm liền. Chị tôi cũng khóc mãi, không kém
ông Cụ.
Tôi bảo chị
khóc vậy có ích gì? Hãy can đảm, tự hào về 2 nhà ái quốc
sẽ bị xử tử ngày mai đó. Ông Cụ tôi càng buồn mà sinh
ốm.
Qua cơn sóng
gió. Triều đình đã tôn ông Hoàng Cả lên làm vua, hiệu là
Khải Định và lựa chọn bách quan vào các chức vụ mới.
Một hôm, Cụ
tôi đi hầu về trưa hơn mọi ngày. Bà Cụ tôi hỏi, Cụ bảo
là Ngài Khải định đã cho mời riêng tôi vào lầu Kiến Trung
và hỏi rằng: "Tôi có thể tin Thầy là ông gia hụt của Duy
Tân không? Cụ tôi tâu lại: "Nếu Ngài không tin xin cho tôi
về". Ngài nói thêm: "Ông Khâm sứ nói: Tôi cần có một người
vợ nói tiếng Pháp giỏi để làm các việc cơ mật, mà người
con gái đó lại là con Thầy, nên tôi muốn biết ý kiến Thầy.
Trước đây tôi đã có bà vợ con Cụ Trương Như Cương rồi
nhưng bà ấy đã xin về 3 năm nay rồi. Tôi sẽ cưới con Thầy
làm Hoàng Phi vợ chính. Thật ra, tôi cũng đã có 1 người
hầu và 1 con mới 4 tuổi, nó sẽ là con Bà Hoàng Phi.
Về nhà, cụ
tôi thuật lại mà thở dài và nói: "Xem chừng con nhỏ nó
còn nhớ vua Duy Tân lắm. Mẹ tôi cũng thở dài rồi đem chuyện
thuật lại cho chị tôi rõ. Vừa khóc, chị tôi vừa thưa:
"Con xin nguyện ở trọn đời, không nhận lời ai nữa hết"
và vào phòng riêng khóc nức nở. Anh cả tôi hôm ấy cũng
về, gọi chị tôi, nhưng chị tôi cũng không dậy, và đòi
tự vẫn.
Ông cụ tôi
lo lắng, bảo tôi vào dỗ chị và nếu chị con vẫn không
nghe lời, thì Thầy cũng xin trở về cày ruộng để khỏi
bị tình nghi.
Đêm đó tôi
đem cháo vào dỗ chị ăn và ngủ cùng chị. Khuya hôm đó,
tôi nói: Thầy và anh Khải đều là văn nhân, nay về làm ruộng
sao được, huống nữa còn 4 anh em đang học ở Hà Nội, vậy
ai là người nuôi các anh nên tương lai? Nếu chị mà không
biết hy sinh, thì Chị còn thua nàng Kiều đã bán mình chuộc
cha. Còn Ngài (Duy Tân) đã vị quốc gia, vậy sao chị không
vì gia đình như Ngài đã hy sinh vì nước?
Lắng nghe tôi
nói, chị nằm im lặng không trả lời. Sáng hôm sau, đôi mắt
còn sưng húp, nét mặt buồn phiền sang phòng Cụ tôi và thưa:
"con xin nghe lời Thầy và anh. Cụ tôi mừng quá, ứa nước
mắt nói: "Thầy biết con vì hiếu quên tình, như vậy là cả
nhà anh em đều có phước nhờ con đó”.
Sáng hôm sau,
Cụ tôi vào Nội trở lời và định ngày cho chị tôi vào
cung để hầu thăm 2 Thái hậu.
Trong thời
gian đó, phong trào Duy Tân tuy bên ngoài có vẻ đã im lặng,
nhưng thực ra vẫn âm ỷ cháy bỏng trong nam nữ thanh niên
nam nữ học sinh ở Huế. Lại thêm lúc này "Huyết thư của
cụ Phan Sào Nam gửi về, tiếp đó cụ Phan bị bắt đem về
nước và giam lỏng ở Huế. Lại còn phong trào Phan Chu Trinh
năm 1922 đưa 7 điều lên án vua Khải Định ở Pháp làm rúng
động lòng dân.
Năm 1926, đám
tang cụ Phan Chu Trinh. Sau lễ truy điệu, học sinh 2 trường
Quốc học, Đồng Khánh, Trường Bách công bãi khóa. Họ kéo
xuống Tòa Khâm biểu tình. Nhiều nam nữ học sinh bị bắt
giam ở hai nơi, nữ ở nhà cụ Ưng Úy, nam ở sân vận động,
trong đó có chị Trần Như Mân và số nữ sinh, nam sinh...
Hồi đó, tôi
ham đọc sách về cách mạng các nước. Gandhi ở Ấn Độ,
và cách mạng Pháp, Nga v.v... vì muốn nghiên cứu kỹ trước
khi hành động vào đời. Tôi vẫn giữ chức thủ quỹ tài
chánh do 2 ông Hải Triều và Bà Trần Như Mân giao phó để
che mắt bọn mật thám.
Muốn giữ
vững nhiệm vụ, tôi đề nghị Cụ Đạm Phương lập Hội
Nữ Công để mỗi tháng đi thu tiền hội viên cả 2 phần
ủng hộ Cách mạng và của Hội.
Các anh chị
mỗi lần cần tiền để mua giấy in ấn tài liệu hoặc công
việc khác, tôi đều ứng trước, có khi phải bù đắp.
Được sự
ủng hộ của cha, tuy có những lần tên mật thám gọi tra
hỏi, tôi đều được cụ tôi bảo lãnh nên vô sự.
Có lần bị
soát gắt gao, anh em đem tài liệu mật giao tôi đưa cất giấu
ngay trong bộ Học, đều được song suốt.
Ngày lập hội
Nữ công xong, tôi có bài thơ tặng chị em, được Cụ Đạm
Phương cho thêu treo ở phòng giữa.
Tặng
hội Nữ Công
Nữ công sáng
lập tại Thừa Thiên
Kinh tế nâng
cao bước nữ quyền
Gánh vác giang
sơn thân gái Việt
Duy trì nòi
giống đất Rồng Tiên
Công dung tinh
tấn không lười biếng
Ngôn hạnh
đoan trang ấy chính chuyên
Tất cả chị
em nên gắng bước
Noi gương
Trưng Triệu mãi lưu truyền
Năm 1928, vì
hội Nữ Công thiếu tiền trả về đất đai, tôi đã lập
một cuộc đấu xảo mỹ nghệ phụ nữ, và 10 đêm giúp vui
lấy tiền vào cửa để thánh toán món nợ cho Hội. Bà con
gái cụ Đạm Phương là bà Bửu Du giử quỷ đó. Hội cũng
đã trích ra để làm giải thưởng khen các sản phẩm và tài
khéo tay của chị em.
Sau cuộc đấu
xảo đó, tôi đã mở một cửa hàng hiệu "Nam hóa", chuyên
bán toàn đồ nội hóa, đồng thời cổ động chị em chuyên
dùng hàng nội. Hiệu còn nhận hàng của các nước ngoài đặt
hàng của nghệ nhân VN (chạm trổ, vàng bạc, hàng tơ lụa,
hàng thêu, đồ mỹ nghệ...)
Một hôm, tôi
bị sở mật thám gọi và cho tôi là gây phong trào bài ngoại
như Gandhi ở Ấn Độ. Tôi đáp: “Kiếm công ăn việc làm
cho phụ nữ nghèo là có tội hay sao? Xin ông cho tôi bằng cớ
phản động và tôi xin chịu tội". Bọn chúng thả tôi về
nhưng làm rắc rối cho Cụ tôi.
Một hôm Cụ
tôi gọi tôi và bảo: "Con nên tổ chức sao cho khéo mới dể
hoạt động". Tôi liền thảo một bức thư mời các Bà Chúa,
các phu nhân của các vị Thượng thơ, các bà quan lớn và
các bà Đầm vợ của những ông Tây quyền cao chức trọng
lập thành 1 hội cứu tế tên hội "Lạc Thiệu". Có dịp cụ
tôi đi Hà Nội, tôi xin đi theo ra gặp Bà Toàn quyền, đưa
đơn mời Bà làm danh dự hội viên, Bà ấy vui vẻ nhận lời.
Vậy là tôi được phép đi các tỉnh gặp mời các bà ? bà
quan lớn của Nam triều, và phong trào ngày càng lớn mạnh.
Hồi ấy hội
Nữ công hoạt động mạnh, đã từng lấy quỹ hội làm lời,
phần gấp anh chị em hoạt động cách mạng, phần giúp phong
trào Cường Để ở Nhật, giúp anh em học ở Trung Hoa (du học)
một phần bỏ vào quỹ An Nam Du học hội, giúp Cụ Phan Sào
Nam (Phan Bội Châu) ở Bến Ngự do ông Trần Đình Nam và ông
Thân Trọng Phước ủng hộ. Một việc làm mà tôi không thể
quên, lúc Bà cụ Phan vào Huế thăm chồng. Chị em hội Nữ
Công chúng tôi do Cụ Đạm Phương dẫn đầu lên thăm và đem
quà tặng Bà.
Sau 1 tháng
ở lại cùng Cụ ông, Bà đòi về quê. Biết hoàn cảnh của
gia đình Cụ, Bà đạm Phương và tôi đem biếu Cụ 500đ và
Hội tặng 500đ (3),
và xin Cụ ở lại vài tháng, Cụ nói là sắp đến ngày mùa,
tôi cần về lo việc đồng ruộng và cúng kỵ giỗ, ai nỡ
ngồi ănám của chồng mà quốc dân ủng hộ. Nhưng vì nể
chị em, Bà chịu ở thêm 1 tháng nữa.
Tháng sau, tôi
lên tiễn Cụ Bà ra ga. Cụ ông đưa cụ Bà ra cửa với đôi
khóe mắt lưng tròng. Ở ga về, bà Đạm Phương cùng tôi ghé
lại Bến Ngự, thấy ông Cụ ngồi trầm ngâm với chén trà.
Ông Cụ mời tôi ngồi và nói: "Không có bà ấy thì không
có tôi ngày nay, rồi cụ thuật lại câu chuyện."
Khi anh em chúng
tôi bị bắt, tôi phải tạm trốn về nhà. Bà ấy nói: "Đã
cưỡi cọp, phải đi xa, nếu ông còn bịn rịn e sẽ liên
lụy cả". Tôi nói: "Con là con chung, cha mẹ tôi gài cả rồi,
bà nghĩ sao?" Bà ấy liền nói: "Ông không tin ở tôi sao? Tôi
là nội tướng, ông là ngoại tướng phải lo xa lánh mới
để bề hoạt động”. Tôi bèn vái bà ấy 3 vái, gửi lại
cha mẹ và 2 con rồi khuya ấy tôi ra đi và từ ấy đến nay
tôi mới gặp lại Bà ấy!
Vì vậy mà
tôi nói sự nghiệp cách mạng của tôi là do tay bà giúp đỡ!
Chúng tôi chào
cụ ra về. Có người hỏi sao thời ấy mà lời thơ, câu đối
của cụ Phan đều tỏ ý tôn trọng, đề cao nữ quyền. Tôi
đáp rằng: vì Cụ đã nhận thấy phụ nữ Việt Nam ta là
vậy, trong đó có vợ Cụ. Tuy hồi ấy chị em được ít học
hành, nhưng yêu nước, kiên cường, đảm đang, hy sinh... Cũng
nghĩ vậy nên tôi có làm bài thơ tặng cụ Bà mà tôi còn
nhớ mãi.
Tặng
cụ Bà Phan Sào Nam.
Một đấng anh
thư thật đáng yêu
Ba mươi năm
trước chuyện còn nhiều
Quyết tình
dứt áo về quê quán
Vững dạ
khuyên chồng giữ chí kiên
Vì nước
hy sinh chia cuộc sống
Thương đời
nên phải quyết tâm liều
Đôi ta chung
sống trong tin tưởng
Gởi mối
tình thâm đến mỗi chiều.
Năm 1930, được
tin ở Nghệ An bị vỡ ổ, nhiều nhà chí sỹ bị xử án tử
hình, phơi thây, bêu đầu...Anh chị em ở Huế gặp nhau, nước
mắt lưng tròng mà không dám khóc. Tôi về nhà anh Hải Triều
ở Đạp Đá. Bà Đạm Phương hỏi: Bây giờ ai hy sinh ra Nghệ
An gặp các gia đình ấy và tìm cách giúp đỡ các gia đình
đó, các cháu mồ côi? Tôi nói: “chỉ có người trong hội
Lạc Thiện đi mới không bị ngờ vực. Cụ Bà Đạm Phương
nói: “Phải rồi, chỉ có Chị, hãy gắng ra thăm hỏi, ? họ.
Tôi về nhà
sắp đặt, nhóm hội lại xin số tiền giúp đỡ, rồi cũng
một bà nữa đi ra Vinh lấy cớ là làm việc từ thiện. Tôi
gặp gỡ các bà đầm vợ mấy ông quan người Pháp và nói:
"Họ có tội thì xử tội họ, nhưng phải chôn cất kẻo mất
vệ sinh, và hội chúng tôi sẽ xin mua hòm được mấy chục
cái và chôn cất họ. Nhân dịp ấy mới gặp vợ con họ lên
chôn chồng, nên hội chúng tôi cũng giúp đỡ các gia đình
đó được ít nhiều trong lúc gặp tai họa.
Lúc ngồi trên
xe trở về Huế, tôi cảm xúc có làm bài thơ mấy câu, nay
mới dám chép:
Thấy
cảnh tang thương
Thấy cảnh này
ai chẳng đoạn trường
Đau lòng khó
tỏ mối tình thương
Lam giang sóng
cuộn trăm dòng lệ
Hồng lĩnh
tro vùi những nắm sương
Khắc khoải
luống thương người chí sỹ
Ngậm ngùi
thêm tủi khách tha phương
Ấy ai tri
kỷ cùng non nước!!
Gỡ bớt cho
nhau mối đoạn trường.
Bài này cụ
Đạm Phương khen là hay mà không dám cho ai nghe . Chỉ có bà
Đốc Tạ là mẹ của Tạ Quang Bửu đọc thôi. Viết đến
đây lại nhớ bà Cụ Đốc Tạ khi đi qua thôn nọ thấy họ
lấy nền chùa làm nhà Thờ, bà có gửi tôi 2 câu thơ:
Ngọn Thủy
triều toan xoay cỗ đô
Bóng Tà dương
đã ruỗi cô thôn.
Tôi đáp lại
2 câu khi lên chùa:
Mặc cho sóng
ngập khắp trời
Con thuyền
vững lái, tá thời vượt qua.
*
* *
Tập II
Từ năm
1925 - 1955
Lấy chồng
và xuất gia đầu Phật
- Một biến
cố của đời tôi
Nguyên năm
ngoái(4) mẹ tôi đau
nặng, có gọi cha tôi đến và dặn rằng: "Nếu tôi có mệnh
hệ nào, thì đừng cho con Tám (tức tôi) để tang vì nó đã
cãi lời tôi dạy, là đứa con bất hiếu"
Tôi sợ Bà
Cụ chết, nên mới thưa: "Xin Mạ yên tâm, chuyến này con xin
nghe lời Mạ dạy". Mẹ tôi lo cho con mà phát ốm, thật tình
mẹ thương con không bờ bến. Nghe lời tôi thưa và xin hứa,
sức khỏe đã ngày một trở lại như thường.
Cũng trong năm
ấy, Cụ ông tôi có dịp đi dự lễ Trà Tỳ vua Cao miên (nay
là Campuchia) vừa mất, tôi cũng được phép đi theo hầu ông
Cụ. Mẹ tôi sửa soạn cho tôi đủ thứ: giày nhung thêu toàn
hạt trai, giày nhung có con bướm bằng vàng kết vào, có nhân
hột xoàn, mỗi bước đi con bướm rung rinh rất đẹp, rất
sang. Vì bên Cao Miên họ giàu có lắm, nên mình phải giữ
thể diện của nước Việt Nam mình. Tôi lại còn phải mặc
lễ phục: áo gấm, chít khăn theo kiểu thứ bậc của một
bà Quận chúa.
Mẹ tôi đưa
2 cha con tôi ra xe còn dặn nhỏ cha tôi "chuyến này phải ép
nó giữ lời hứa". Cha tôi gật đầu rồi sau đó nói lại
với tôi: “Mẹ con hy vọng con sẽ lập gia đình sau chuyến
được đi hầu cha ở nước ngoài về"
Tôi cũng biết,
tự thấy lòng mình sao dửng dưng trước bao nhiêu người ngang
trang, ngang lứa, học cao, địa vị cao, con nhà "môn đăng hộ
đối”, đang muốn được dạm hỏi mình.
Riêng tôi,
tình thương rào ? mà sao chỉ thương người khổ đau? Như
năm 1926 kia, tôi đã bồng về nhà một đám con côi vì mẹ
chúng nó đã chết vì uất hận.
Lại nói đến
đoàn đại biểu Việt Nam đi dự lễ Trà Tỳ ở Cao Miên gồm
có Cụ tôi, tôi, một ông thư ký ở viện Cơ mật và 1 bác
sỹ. Đoàn đi xe hơi nhà vào Sàigòn, và lên Cao Miên. Họ đón
tiếp đoàn Việt Nam ở một ngôi nhà rộng rãi, sang trọng.
Trên lầu 2 phòng để Cụ tôi và tôi ở. Dưới cũng 2 phòng
sang trọng để 2 ông ở.
Ngoài những
bửa tiệc khoãn đãi, tôi thường làm cơm ta để ông cụ
hợp khẩu vị, xơi được cơm. Đặc biệt của lễ Trà Tỳ
là đốt hương thơm nhiều, liên tục.
Sáng hôm ngày
lễ, trời vừa hửng sáng, người đã lũ lượt kéo đến
trước lễ đài. Đài rất cao làm bằng 1 cây gỗ quý. Mỗi
vị khách quý đều len bỏ vào 1 hoa gỗ rất thơm, khói nghi
ngút, trang nghiêm. Dự lễ chính có 720 Thầy tu, tượng trưng
nhà vua được 72 tuổi. Khi vị Hòa thượng già cuối cùng
lên châm lửa, tiếng tụng niệm nghe như khúc nhạc thiên nhiên,
ai nấy đều cầu nguyện cho nhà vua sớm tiêu diêu về cõi
Cực lạc.
Xong lễ Trà
Tỳ, xác vua để ở 1 cái tháp đồng. Tro ấy sẽ để lại
1 bình thờ ở đại nội tại chùa vàng, gia đình nhà vua sẽ
làm lễ bố thí cho người nghèo đang tụ tập quanh đài. Tự
tay vua con và gia đình đem bố thí.
Xong lễ cúng
dường, bố thí ấy, chúng tôi được mời về Đại nội
ăn cơm trưa. Tôi được sắp xếp ngồi đối diện với ông
Hoàng tử Cao miên, nói tiếng Pháp và cả tiếng Anh khá giỏi.
Trước khi
ăn cơm, tôi thấy ông ta chấp tay vái, tôi hỏi thì ông nói
đó là cúng Phật trước khi ăn. Tôi hỏi: ông tu từ hồi
nào? Ông ta nói: Từ khi 6 tuổi đến 12 tuổi, ông ở 1 chùa
trong Đại nội, học đạo làm người. Nếu không học, dù
là một ông Hoàng cũng không ai gả vợ cho. Chúng tôi đều
cười, nói lãng đi.
Khi về nhà,
ông Cụ tôi cho biết ông hoàng ấy muốn qua Việt Nam gặp
con trở lại. Tôi thưa: "Thầy nên từ chối ngay đi, gia đình
đã làm khổ chị con, thôi đừng làm khổ con nữa. Vả lại
nếu con đi xa, Thầy và Mẹ con sẽ sống với ai? Còn chị
con nữa đang bất mãn, lấy ai để tâm sự? Cụ tôi thở dài,
im lặng, không nói gì nữa.
Ở Cao Miên,
một cử chỉ đẹp làm tôi không quên. Ngôi nhà tôi ở, có
anh lao công. Khi sắp về lại VN, tôi có tặng anh ta 100đ. Tôi
nói anh giữ làm kỷ niệm, anh tỏ vẻ không bằng lòng. Không
nói gì, anh mời tôi ra xe hơi cùng đi đến 1 cửa hiệu bán
đồ bạc chạm trổ rất đẹp. Anh ta mua 1 quả bồng bằng
bạc giá 95, rồi lên xe bảo đi nữa. Đến 1 ngôi chùa anh
vào trước, lấy khay để quả bồng, trước mặt vị sư Tăng
đã già 80 tuổi rồi bảo tôi vào lạy. Sau, anh cũng vào lạy
rồi ra xe cùng về và anh ta bảo: “đó là kỷ niệm đẹp
đời đời đó”
Tôi tự nghĩ,
một người nghèo mà tâm hồn sang và đẹp quá, trái lại
người giàu mà hèn, rồi cứ hèn mãi!
Về đến Sài
gòn, ai mời đi đâu, Cụ tôi đều bảo tôi đi thay. Nào là
tiệc Tây, tiệc Nam, nghe nhạc, chơi nhạc, nhảy đầm thời
ấy rất thịnh hành.
Tôi cùng bạn
của các anh tôi ở Pháp về nước(5)
đi chơi thả cửa, đủ các nơi suốt 2 tuần lễ.
Hôm ra về,
vé xe lửa đã có sẵn. Vì vậy xe ôtô nhà chỉ chở đồ
ra Nha Trang và tin cho chú ruột của tôi hiện làm Tuần vũ
tỉnh ấy. Mỗi cabin có 4 giường sang trọng dành cho phái đoàn.
Tôi nằm ở trên, ông Cụ tôi nằm dưới với ông Thư ký.
Ông Cụ hỏi tôi: "Con đi chơi cùng các anh bạn, vậy có anh
nào vừa ý không?". Tôi đáp: "Con thấy họ theo Tây quá và
thấy họ thật là con nít" rồi đi nằm. Cụ tôi bảo nhỏ
với ông thư ký: "tính nó kỳ quá vậy, tuổi còn nhỏ đã
hơn gì ai mà bảo người ta là đồ con nít?" và nghe ông ta
đáp lại: "Thưa Cụ, cô ấy kiêu kỳ quá!" Tôi liền nói lại:
"Ông thư ký nói ai kiêu kỳ, tôi chỉ nói sự thật, thanh niên
mà chỉ biết ăn chơi là con nít, chẳng phải sao?". Ông làm
thinh và xin lỗi đã nói lén tôi.
Về Nha Trang
ở lại 2 ngày. Trên đường về chúng tôi ghé Tuy Hòa ăn cơm
trưa. Bị mời, Cụ tôi và ông Bác sĩ đi, 2 chúng tôi ở nhà
ăn cơm, ngồi chơi, nói chuyện.
Ông nói: "Cô
kiêu kỳ ở chỗ khinh người trẻ trong khi người ta lớn tuổi
hơn Cô”. Tôi đáp: “tuổi tác không làm người già trẻ,
mà là tánh con người khác nhau? họ ham chơi, trong lúc người
dân mình quá nghèo khổ? Họ ích kỷ như vậy là họ còn con
nít. Người lớn là người biết lo gia đình và xã hội. Vì
vậy mà tôi nói con nít ở đức tánh con người”. Vừa nói
đến đó, thì xe Cụ tôi đã về và chúng tôi cũng lên xe
ra Huế.
Về đến nhà,
bà cụ tôi hớn hở ra đón cha con chúng tôi. Vào phòng nghe
ông cụ nói sao đó mà thấy mẹ tôi xịu mặt và cũng không
hỏi han tôi gì cả. Tôi đoán biết câu chuyện, cũng buồn.
Một hôm tôi hỏi: “Mẹ muốn con đi lấy chồng, sau này dù
con gặp gian khổ, mẹ có chịu không?". Bà đáp: "Dù ai, tao
cũng gả, có như vậy tao mới thấy an lòng và mới trọn bổn
phận của người mẹ!"
Suy tính mãi,
nếu không chịu thì mẹ tôi sẽ rất khổ tâm, mà nếu theo
ý mẹ thì biết trước rằng tôi sẽ rất khổ và ước gì
lúc ấy có một chùa Sư nữ để mình được vào chùa tu.
Một hôm, tôi
xin phép cha cho tôi được gặp ông bạn thư ký, người mà
cha tôi có thiện cảm, đã thông cảm hoàn cảnh của ông nên
đã đi hỏi vợ cho mà không ai dám nhận lời vì ông mang bệnh,
lại có 6 con còn nhỏ, gặp rất nhiều khó khăn. Cụ tôi hỏi:
"Vậy con ưng ông ấy hay sao?". Tôi thưa: "Nói ưng thì không
đúng mà con muốn nuôi các con ông ấy, và con luôn được
ở gần Thầy, Mẹ và chị con".
Cụ tôi cho
mời ông lên, tôi tỏ ý. Ông nói: "Cưới cô, thì tôi không
dám, vì tôi có bệnh, còn các con tôi, Cô muốn nuôi, tôi xin
cảm tạ Cô. Tôi sẽ đưa lên để Cô nuôi dạy thay Mẹ chúng".
Cụ tôi bằng lòng cho tôi làm mẹ nuôi chúng nó.
Một năm qua,
tôi thương các con côi như con mình, mấy đứa nhỏ rất dễ
dạy. Cuối năm ấy, nghe tin gia đình bên họ Cao vào Huế có
các Cụ anh chị của ông ấy lên gặp Cụ tôi và trình bày
sao đó. Cụ tôi cho gọi tôi lên và dạy rằng: "Con đã thương
chúng nó thì phải thương đến cùng. Nay các Cụ bên họ Cao
vào xin lễ cưới con để dù 1 ngày con làm mẹ chính thức
của chúng nó. Con nên suy nghĩ, hy sinh, cụ cố họ Cao là thầy
học của Thầy đó, không nên để họ phải băn khoăn, mang
tiếng là nhờ vả nhà ta nuôi con cháu họ". Tôi suy nghĩ 3
ngày rồi xin nhận lời. Nguyên nhân khi nghe vậy, tôi bèn xuống
nhà, gọi chúng nó cho chúng biết là chúng sắp phải rời
tôi để về ở với các O, các Bác...Chúng nó khóc quá và
nói "không đi đâu hết, chúng con ở với Cô trọn mãi, nhất
là Cao Xuân Lữ, là anh lớn nhất được 10 tuổi, rủ các
em ra lạy Cô và khóc sướt mướt.
Tôi cũng khóc
và nói: "Cậu các con sắp có vợ rồi, các con phải về nhà,
không ở đây với Cô được nữa. chúng nó khóc ré lên. Cụ
tôi nghe, cho gọi chúng, dỗ dành chúng (3 trai, 2gái, út được
3 tuổi, lớn là 10 tuổi). Ông ngoại sẽ cho Cô về làm Mẹ
các con, thôi đừng khóc nữa. Chúng nó liền vỗ tay, reo cười,
làm tôi cũng trào nước mắt.
Riêng tôi,
tôi cũng thấy trước được rằng, Cha chúng nó cũng sẽ không
sống lâu được. Chúng nó sẽ khổ gấp bội nếu tôi không
nuôi dạy thay cha mẹ nó, thì ai là người thương chúng nó?
Chú, bác, cô, gì của chúng cũng đông nhưng ai nấy đều có
con cái, gia đình họ.
Nghĩ vậy,
tôi cũng đồng ý cho họ Cao đi hỏi và cưới với điều
kiện tôi sẽ ở nhà tôi với các con vì còn bổn phận đối
với Thầy, Mẹ và Chị tôi nữa. Mẹ tôi rất buồn, nhưng
đã hứa rồi, nên đành vậy. Các anh chị tôi đều rất bất
bình, song không ai dám cãi lời ông Cụ. Cũng vì vậy mà đám
cưới tôi thành một đám tang. Ngày chú rể lên lạy 2 Cụ,
cả nhà hai họ đều khóc. Khi các con ra lạy ông bà ngoại
và cha mẹ họ hàng đều khóc như là đám ma. Do đó, tôi làm
mấy câu thơ kỷ niệm!
Đám
cưới
Đám cưới hay
là một đám tang?
Cả nhà, lớn,
nhỏ, thảy đều than
Chồng chung,
bệnh hoạn tình phai lạt
Vợ kế, kề
vai gánh đoạn tràng
Kẻ nói là
ngu, người nói dại
Người cho
là dở, kẻ cho gan!
Biết chăng
chỉ có người trong cuộc
Gạy mái thuyền
từ phải quyết sang.
Qua 11 tháng
sau, tôi vừa nằm chỗ được 3 tuần, có tin lên báo tôi biết
là cậu chúng nó đã yếu lắm rồi.
Tôi về nhà,
đem ông lên nhà thương thì đã muộn quá. Chính người bệnh
cũng không muốn sống vì sợ bệnh lây sang vợ con. Đưa về
nhà, ông vui vẻ bảo với các anh chị ông: "Bao giờ bà ấy
trả các con, thì các Anh, các Chị hãy nhận nuôi chúng nó.
Mà tôi chắc chắn là Mợ nó không trả chúng nó đâu, bà
ấy muốn nuôi con mồ côi nên mới về nhà ta vậy đó!"
Tôi xin miếng
đất ở lưng núi Ngụ Bình để chôn cất. Khi lễ tang đã
xong, các bà đầm bạn bè trong hội Lạc Thiện đi đưa đám
hỏi tôi: “Bây giờ bà tính sao đây?. Tôi đáp: “Việc mà
phụ nữ châu Âu cho là nan giải,là khó, thì phụ nữ Á Đông
chúng tôi đều nghĩ đến đạo lý, đến tình nghĩa cho nên
cũng sẽ vững vàng trong chịu đựng vì vậy việc nuôi dạy
chúng nó từ nay mồ côi cả cha lẫn mẹ là đạo nghĩa". Các
bà ấy tiếp lời: "Chúng tôi nói khó là ở chỗ bà còn trẻ
quá, mới có 25 tuổi, lại đẹp vậy nữa mà sẽ phải hy
sinh trọn đời hay sao? Tôi chỉ im lặng, cho các con ra vái
tạ ơn và nói sang chuyện khác.
Chôn cất xong,
tôi xây mộ cho ông. Khi ngồi coi thợ xây, các con đều quây
quần xung quanh tôi. Bỗng, một con chim én lượn vòng tìm tổ,
tôi bỗng nảy mấy vần thơ kỷ niệm việc xây mộ như sau
và cũng nhờ bài thơ này truyền tụng mà tôi được các Thiền
sư lưu ý rồi tìm gặp tôi, dẫn dắt tôi vào con đường
đạo, đến nay đã quá nửa đời người mà vẫn còn nhớ
mãi.
Đắp
mộ
Đắp điếm cho
nhau thí gọi là
Hẵn người
thanh khí thấu cho ta
Bơ vơ trên
núi chim tìm tổ
Quanh quẩn
bên mình trẻ gọi cha
Cây cỏ như
cười người bạc mệnh
Nan sông nào
phụ khách tài hoa
Ví cho thử
nắm quyền ông "Tạo"
Thì bể trầm
luân lấp phẳng qua.
Thế là cuộc
đời đã trôi qua 20 năm trời, tôi bước vào đạo Phật với
một tấm lòng không thay đổi, không e ngại. Nhờ học Phật
mà thấy rõ cuộc đời giả tạm và tôi đã chọn đúng đường
đi, lối sóng vô ngã là lối sống thanh cao. Con người Việt
nam mình hơn loài vật ở chỗ biết chọn lối sống vô ngã,
vị tha, một tình thương không ích kỷ mà ông cha ta xưa nay
đã trải qua 20 thế kỷ đã chọn làm kim chỉ nam cho cuộc
sống dân tộc Việt Nam. Do đó tính bất khuất của dân ta
mỗi ngày thêm nuôi lớn cũng nhờ ý chí ấy.
*
* *
Một nhân
duyên mới
Khi tang lễ
xong, tôi xin đem thờ Cậu các cháu tại chùa Tường Vân nam
do chị gái lớn tôi lúc ấy về Huế vì anh rể tôi đổi
về làm Phủ doãn Huế, khuyên nên xin ký tự tại chùa.
Sắp đến
49 ngày, Hòa Thượng Tường Vân cho gọi tôi và dạy rằng:
"Bà nên lên xin Hòa Thượng Trúc Lâm để thờ ông Tham trên
ấy luôn, vì trên ấy có bàn thờ họ Hồ Đắc xưa lắm rồi".
Tôi vâng lời,
lên bạch xin Hòa thượng và xin được phép thờ họ Cao Xuân
ở Chùa. Sau đó tôi mới rõ rằng các Ngài đã bàn cùng nhau
trước và quyết tâm "độ” cho tôi được học Phật vì
biết tôi có sẵn mầm giống, sợ rằng để tôi đi lạc về
thế pháp thì uổng. Chùa Trúc Lâm là chùa của Cô ruột tôi
thành lập sau khi Cô vào thọ giới tại đàn chùa Phước Lâm
tỉnh Quảng Nam vào năm 1911, gọi tên Đàn Vĩnh gia.
Tôi nhớ lại
năm ấy, Cô tôi vào Quảng Nam ở lại 1 tháng với gia đình
ông Cụ tôi, ngày nào cũng khóc và xin cho được khai Đàn.
Cụ tôi nói: sợ đông đảo người tới dự sẽ gây tai biến
tại bản tỉnh thì nguy. Cô tôi phải nhờ Mẹ tôi xin mãi,
buộc lòng ông Cụ tôi phải bố trí cho khai Đàn và may không
xảy biến cố nào.
Năm ấy Cô
tôi và các bà Sa di ni như Cô Tôn ở chùa Thiên Hưng là bạn
với Mẹ tôi cùng nhiều bà ở trên Tỉnh đều có mặt. Mẹ
tôi làm cơm chay cúng dường các Bà, tôi cũng được ăn hầu
và rất thích đi chùa theo các Bà.
Khi thọ giới
xong, các Bà đều ra Huế, tôi rất muốn đi theo Cô, song không
được phép của Cụ tôi, đành thôi.
Đến nay, tôi
lên lại chùa Trúc Lâm mà Cô tôi không còn nữa để gần
gũi. Cô đã cúng chùa cho Hòa Thượng Giác tiên làm trụ trì
khai sơn và sau này Hòa Thượng là bổn sư thập giới của
tôi.
Lại nói khi
Thầy đã cúng lễ 49 ngày cho Cậu các cháu xong, Hòa Thượng
gọi tôi cho uống nước và hỏi: "Bây giờ Bà làm gì?" Tôi
bạch là vẫn tiếp tục công việc từ thiện, hộ nữ công
v.v..." Ngài dạy: "Làm việc ngành ngọn mà quên cội gốc,
ví như cây lá sum suê mà gốc cây mục nát, trước sau gì
cũng sẽ thất bại".
Tôi hỏi: "Vậy
cội gốc là gì?" Ngài đáp: Là cái tâm người không lo trau
dồi mà chỉ lo các việc làm, khác gì ngành lá sum suê mà
gốc mục nát sẽ đổ tất cả".
Ngồi suy nghĩ
một hồi, tôi xin phép về, Ngài còn dạy thêm: "Bà hãy về
suy nghĩ kỹ kẻo sau ăn năn”. Tôi vâng dạ ra về, suy nghĩ
mãi mà sau 1 tháng mới lên hầu Thầy. Ngài hỏi: "Bà suy nghĩ
chín chưa? rồi nói tiếp: Vua Minh Trị vì biết dạy dân về
đạo đức nên dân mạnh và nước giàu. Đời Lý, Trần, nước
ta cũng nhờ Đạo đức mà 200 năm người Tàu không dám xâm
lược. Vua Trần Nhân Tôn một nhà Cách mạng mà cũng là Đại
Thiền Sư, tôi đã re núi Yên tử, đã được đọc lịch sử
ấy;
Tình hình nước
ta bị đô hộ, họ muốn dân ta quên gốc và biến dân ta thành
nô lệ. Những người ái quốc nổi lên chống trả đều bị
giết . Nếu Bà có tâm, nên lặng lẽ học Phật, tu tâm và
dạy người. Có như vậy, và nhiều người như vậy mới mong
thế hệ sau lo cho nền độc lập nước nhà"
Nghe một hồi,
tôi như người mê chợt tỉnh, không ngờ trong chốn thiền
môn mà có những tâm hồn cao đẹp, nhìn xa, thấy rộng. Tôi
nghĩ, ở chùa chỉ gõ mõ, tụng kinh ai ngờ có người hiểu
xa, sâu sắc vậy.
Tôi hỏi: "Thầy
dạy con phải làm gì?". Ngài dạy: "Trước phải lo cho hiểu
đạo, rồi phải tu mới làm nên sự nghiệp".
Tôi về từ
biệt các anh chị em và cụ Đạm Phương, Cụ hỏi vì sao?.
Tôi nói: từ nay, tôi chỉ muốn được học kinh Phật và tôi
chỉ còn giữ chức thư ký cho hội Lạc Thiện. Đến 10 năm
sau, lập xong các chi hội Phật học tôi mới nghỉ. Tôi về
đem thằng con nhỏ(6)
giao cho Bà chị ruột, khi ấy con bà là Bửu Hội đã đi Pháp
học nên bà đã vui nhận. Cháu gái đầu đã về ở cùng 2
Bác ruột. Còn 5 cháu nhỏ, tôi gởi nội trú ở 2 trường
nam, nữ Quốc học và Đồng Khánh, chỉ ngày chủ nhật nghỉ
học mới về.
Giai đoạn
ấy, gặp lúc bà chị ruột tôi ở trong nội đã hết tang
vua, nên đã xin ra Chùa ở Châu Ê, hiệu là Khải ân tự. Tôi
được lên ở với Bà, ngày ngày về chùa Trúc Lâm theo lớp
học tại đó, chiều lại lên chùa với Bà. Như vậy được
3 năm yên tĩnh. Sau đây có mấy bài kỷ niệm ngày lên chùa.
Giao
cao
Xin chị vì em
nuôi lấy con
Để em lên
núi mới vuông tròn
Tình nhà,
tình đạo, tình dân tộc
Hiến trọn
đời tình cho nước non.
Lên
chùa
Phong cảnh Châu
ê khéo lạ lùng
Nhìn trời,
nhìn núi lại nhìn sông
Lên đây dưa
muối phai mùi tục
Mõ sớm, chuông
khuya sưởi ấm lòng
Năm 1932, tôi
thảo thơ xin lập hội Phật học. Ông Cụ tôi và cụ Thân
thần đều hết sức ủng hộ, nhưng cụ Nguyễn Hữu Bài lúc
ấy làm đầu triều vẫn không cho phép.
Một hôm, Thầy
tôi sau khi khai trường học ở Trúc Lâm, có mời Hòa Thượng
Tập Tháp ở Bình Định ra dạy Ngài bạch rõ cùng Hòa Thượng
Thập Tháp về việc trở ngại thành lập hội. Hòa thượng
có ý kiến giúp đỡ của Thánh Cung Hoàng Thái Hậu. Thầy
Trúc Lâm bảo tôi nghỉ học vào Nội hầu và đọc bản điều
lệ lập hội cho Ngài Thái hậu nghe.
Trong bản điều
lệ xin phép, đoạn đầu có nói từ vua Gia Long rồi kế đến
Minh Mạng, Thiệu trị đều lập Chùa ủng hộ Phật Giáo.
Nhân đó tôi đã trình bày việc cản trở Phật giáo, người
Pháp muốn đem đạo chúa hóa đổ dần dần người dân sẽ
quên người sáng lập mà chỉ biết đến "mẫu quốc Pháp".
Ngài Thánh
Cung giận quá hỏi chuyện. Tôi tâu là sẵn có bản điều
lệ mà cụ Nguyễn Hữu Bài đã xếp lại cả năm nay. Vậy
xin Ngài gửi thẳng cho vua Bảo Đại ký gởi về cho mới duy
trì đạo Phật trong dân chúng được.
Ngài suy nghĩ,
và ngày mai cho ra mời Ngài Tịnh Khiết ở chùa Tường Vân.
Tôi đã thưa trước nên Hòa thượng cũng nói như vậy. Ngài
đồng ý viết thư kèm theo bản điều lệ gởi cho vua Bảo
Đại. Một tháng sau tôi vào, thì Ngài nói: "Ông Bài đã vào
cư nự nói là Ngài nghe con nít!" Tôi đã la cho và nói: "Sao
ông binh vực đạo của người Pháp mà lại bỏ đạo của
Việt Nam từ ngàn đời? Vậy là Ông không nghĩ các vua Chúa
nhà Nguyễn ra sức lập chùa, mà Ông muốn phá sao? Ông lui
và vì giận ông ta nói: "Các chùa nên thận trọng đó"
Tôi đem tin
vui về, các ông Lê Đình Thám và tất cả Hội viên đều
rất mừng lo sửa soạn lập hội ở Huế và các chi nhánh
các tỉnh miền Trung.
Hòa thượng
Giác Tiên lại dạy: "Lúc này Bà phải hoạt động cho Đạo
để báo ơn Tổ. Ông Lê Đ.Thám vì bận công tác bên ngành
y phải lo ở Huế. Bà rảnh rang hơn phải đi các Tỉnh mà
phát triển thành lập hội. Các giảng sư sẽ vào giảng mỗi
khi các nơi lập hội xong".
Vâng lời Thầy,
tôi về chuẩn bị điều lệ Hội. Đi đến tỉnh nào, tôi
đều lấy tư cách là hội viên Lạc Thiện đến thăm các
bà Sứ, các Cụ, các quan, các bà quan. Tiền của Hội thì
mua toàn quần áo đem đi cho người nghèo, trẻ nhỏ. Trước
cho các con chiên ở các nhà thờ, sau nhà các bà quan đem ủng
hộ cho dân Phật giáo. Tôi đưa các điều lệ cho Thầy trụ
trì và xin mời các nhà trí thức Phật tử đến ăn bữa cơm
chay, nói chuyện.
Chỉ 2 năm
sau, từ Thanh Hóa đến Phan Thiết, khắp cả Trung phần đều
thành lập các Tỉnh hội và chi hội, có đủ các giảng sư
đi giảng kinh. Phong trào Phật giáo cũng lôi cuốn người yêu
nước. Báo Từ Bi âm ở trong Nam, báo Đuốc Tuệ ở ngoài
Bắc, báo Viên âm ở Huế, tiếp sau đó là báo "Tiếng chuông
sớm", báo Từ Quang, báo "Liên Hoa" ra sau khi tờ Viên âm đình
bản vị cụ Lê Đình Thám đi ra Bắc 1945.
Ở các miền,
phong trào Phật giáo đều sôi nổi nhất là ở các trường
Phật học, ở Huế có 1 trường Đại học ở Tây Thiên, 1
trường Tiểu học ban đầu ở Trúc Lâm sau dời ra chùa Bảo
quốc, 1 trường sư nữ ban đầu lập ở chùa Từ Đàm, sau
nơi đó lấy làm Hội quán nên trường của các sư nữ dời
vào chùa Diệu Đức.
Phong trào Phật
giáo làm bình phong cho phong trào cách mạng. Các bác Hội viên,
các thanh niên như Võ Đình Cường, Đinh Văn Nam, Đinh Văn Vinh,
nữ có các chị Hoàng Kim Cúc, Bích Thủy, Bích Chi đều đi
học Phật và xây dựng các gia đinh Phật tử. Toàn quốc có
3.000 đơn vị. Các nhà lãnh đạo Phật giáo vẫn biết có
số cán bộ cách mạng gia nhập để hoạt động nhưng cũng
lơ cho họ làm phận sự yêu nước.
Đề mục các
bài giảng chỉ giới hạn 3 mục tiêu: Mến Đạo, Giúp người,
lòng liêm sỉ. Trong mục liêm sỉ, cố gieo tinh thần bất khuất
mà bọn mật thám cùng khó kiểm duyệt rõ ràng. Các vị giảng
sư cũng nhiệt tình nữa.
Năm 1942, phong
trào đã chín muồi, nên các nhà cách mạng đi đâu, về đâu
đều yên ổn, được sự bảo đảm của nhân dân yêu nước.
Ngày Bảo Đại
thoái vị cũng có sự tham gia của Phật giáo ở nội cung mà
cụ Phan Khắc Hòa đâu có biết. Cũng nhờ vậy mà Bảo Đại
khi thối lui cách ôn hòa nên cũng khỏi đổ máu dân chúng,
nhưng cũng làm cho bà Nam Phương hoàng hậu gần bổ ngửa,
vì kế hoạch của người Nhật do không thành công.
Khi người
Pháp đưa Nam Phương về làm hoàng hậu đều có mục đích
chính trị, nhưng liền bị sự phản ứng ở nội cung, đứng
đầu là đức Thánh cung nên cũng xảy sự bất hòa giữa mẹ
con, bà cháu. Các Hòa Thượng bảo tôi vào nội khuyên ngài
Từ cung nên học Phật, nên chìu con để Bảo Đại khỏi bỏ
đạo Phật. Vì vậy khi Từ cung đã đốc lòng theo Phật thì
rất sợ sự sát sinh nên mới không có việc đổ máu kể
trên, mặc dù bà Nam Phương thúc vua theo Nhật chống lại Việt
minh.
Khi Pháp trở
lại cai trị, Phật giáo bị điêu đứng muôn phần. Một cuộc
lùng bắt tình nghi ? đã theo Việt minh. Hòa thượng Đôn Hậu
bị cầm tù và sắp bị tử hình. Hòa thượng Mật Hiển phải
giữ quyển kinh Kim Cang, không rời chùa, sau đó ra đồn xin
giấy mời các Hòa Thượng về Huế, và tin thầy Mật Thể
đã đi khỏi.
Khi cho người
giả bán bánh kẹo đi tìm ở các đồn Tây, mới được giấy
thầy báo tin cho biết ngày mai HT Đôn Hậu sẽ bị xử tử.
Tôi đưa thầy Mật Hiển xem, chỉ khóc. Tôi xin đi cứu. Thầy
hỏi: “Bà đi với ai? Tôi đáp: “Nếu tôi có chết sẽ có
Cô Ba Nghêu đem xác tôi về, chứ không thể ngồi yên vậy
được”.
Tôi và cô
Ba xuống sở mật thám Pháp. Cô Ba ở ngoài, còn tôi có 2 người
lính bồng súng đi kèm vào phòng trong. Mật thám Pháp hỏi:
Bà đi đâu? Tôi nói: Đến để đưa 1 tin quan trọng, rồi
trình bày tình hình Ngài Đôn Hậu. Ông mật thám ấy lấy
ngay 1 cái ảnh có thầy Mật Thể và thầy Đôn Hậu, nó chửi
Phật giáo một hồi. Tôi lúc ấy giận quá, mắng lại nó
là người thô lỗ đối với phụ nữ. Thấy tôi trả lời
bằng tiếng Pháp giỏi, nó bèn quay sang hỏi lại lịch tôi.
Khi đã biết tôi là ai rồi, nó đấu dịu mời tôi ngồi xuống
và hỏi: Vậy giờ đây bà muốn gì? Tôi nói: "Các ông đã
lầm, ông này là thầy của thầy Mật Thể. Ông mà làm sai,
lổi lầm trong việc này thì Phật tử họ sẽ thù ông vạn
đợi. Nó lại hỏi: “Vậy ông Đôn Hậu hiện nay bị giam
ở đâu? Tôi cho biết chỗ giam Thầy và yêu cầu họ để
cho ông được về lao Thừa phủ để xét lại kẻo sẽ giết
oan một ông Thầy tu chức lớn ấy. Tôi ngồi đó và được
nghe ở đầu dây máy nói là họ sẽ cho Thầy về chùa Tây
Thiên lấy áo quần vào hồi 9 giờ sáng hôm sau và sẽ đem
giam tại lao Thừa phủ.
Mừng quá,
tôi cám ơn lão rồi đi ra. Về đến chỗ cô Ba vừa đúng
12 giờ trưa, gặp thầy Mật Hiển. Chúng tôi cùng ăn bữa
cơm rau thật ngon lành, vì cả ngày hôm qua nhịn, mà quên cả
đói.
Sáng hôm sau,
chúng tôi qua Tây thiên thấy 2 người lính đưa thầy Đôn
Hậu về mà chúng tôi nhìn không ra mặt của Thầy nữa. Mặt
mày tím bầm, nói không ra tiếng, và rất yếu. Lấy áo quần
xong, được ăn bữa cơm ở chùa rồi họ lại đem về giam
ở lao Thừa phủ.
Tôi hỏi thăm
và được biết quan Phủ doãn sở tại là ông Nguyễn Khoa
Toàn. Mừng quá, tôi viết mấy chữ bỏ vào hộp Kalmine gián
lại rồi nói của bà vợ ông ở Vỹ Dạ gửi lên cho ông.
Trong thơ, chủ yếu tôi chỉ xin cho Thầy Đôn Hậu được
qua nhà thương, được chữa bệnh và để xét lại.
3 ngày sau,
Thầy được đưa qua bệnh viện. Tôi lại viết thơ nhờ ông
Tráng đinh đem về cho bà Từ cung, cố gắng nhờ bà Nam Phương
bảo đảm cho là vị vô tội, bị bắt oan. Một tháng sau,
trị lành các bịnh, mới trở về chùa Linh mụ.
Lại nói từ
khi Pháp quay lại, Phật giáo bị nhiều cảnh quá khổ đau.
Một hôm có người Pháp dẫn lính vào chùa Hồng Ân bảo tôi
là phải tin cho chúng nó biết ngay khi có Việt minh về. Nếu
không báo ngay thì chúng kết tội đồng lõa với giặc. Tôi
nghĩ mãi về việc này. Chốn này anh em hay về để tiếp tế,
giao liên, thật khó nghĩ. Một hôm có quân lính của chúng
đi tập. Tôi vội cho báo chúng hay. Chúng quân vào hỏi, tôi
chỉ họ đương ở ngã vào chùa Thuyền Tôn. Vào đến nơi,
thì ra toàn là lính của Pháp đang tập bắn. chúng lại kéo
ra Hồng ân, chửi bới om sòm, tôi nhẹ nhàng xin lỗi vì không
rõ ràng là ai, chỉ biết họ tập bắn thì báo.
Cũng từ đó
về sau, bọn Pháp không sai khiến và vào quấy nhiểu nữa
nhưng mật thám người Việt của bọn tay sai lại để ý,
gọi tôi về sở mật thám hỏi han lôi thôi lắm. May có Ngài
Từ cung đở cho, mà cho chúng đến hỏi tôi ở An định cung.
Ông Võ Như Nguyện nói: "Sư Bà tiếp tế cho bọn cộng sản
phải không? Tôi trả lời: "Cộng sản là ai, họ có dấu hiệu
gì? Nhà chùa chúng tôi chỉ có giúp đỡ những ai nghèo khổ,
đói, đau mà biết ai là cộng sản". Tôi quay về phía bà Từ
cung và thưa: "Người Phật tử thấy người Việt Nam, đói,
rét, đau khổ có nên giúp đỡ không? Ngài nói: "Nên chứ,
chỉ trừ cộng sản” Tôi lại thưa, khi đói khổ, họ đến
xin đâu có nói họ là ai, chỉ biết họ đến xin thì mình
giúp. Nói qua lại một hồi, Bà Từ cung bảo: "Thôi, ông Nguyện
cho bà lên, để mai còn đi nghe kinh".
Lúc bấy giờ,
đa số các chùa ở núi như: Thiền tôn, Trúc lâm,Trà am, Hồng
ân, Diệu viên, Khải ân, Từ Hiếu, đều bị chung số phận
như nhau, nghĩa là bị tình nghi tiếp tế cho Việt cộng cả.
Mà cũng không oan, vì mỗi khi thấy họ về thiếu thốn, nhất
là họ cho biết quân đói đã mấy ngày mà không cơm thì ai
mà không xót ruột, đau lòng!
Thật trong
giai đoạn đó, vùng tạm bị chiếm phải chịu nhiều nỗi
đắng cay kể sao xiết, vậy mà còn bị người vu cáo, Việt
cọng thì cho là theo Mỹ, theo Pháp, Việt Nam thì cho là theo
Việt cộng, người dân bị lưỡng đầu thọ khổ.
Các chùa là
nơi ẩn trú của các nhà cách mạng: từ vụ án Đoàn Trưng,
Đoàn Trực đã bị Pháp bắt bớ, nhất là ở Huế nơi phát
xuất các vụ biểu tình nên hồi đó có câu ca dao:
Sông Hương
nước lặng như tờ
Đến ngày
nước đổ, ai ngờ tràn lan
Người Huế
là người lặng yên
Vậy mà làm
dậy 2 miền Bắc Nam.
Tập III
Từ năm
1955 đến 1975.
Cuộc đấu
tranh để duy trì và phát triển
Phật giáo
ở miền Nam
Trong lúc liên
lạc, tôi được bài thơ của cụ Đạm Phương gởi tặng
chùa Diệu đức lạc thành năm 1936 đến năm 1947 tôi mới
nhận được.
Tặng Bà
Diệu Không thọ giới
Khoác áo nhu
hòa thiệt khỏe không
Hiếu tình
2 chữ trả đều xong
Thờ thân,
nuôi trẻ hai triêng nặng
Mến đạo,
thương đời, một điểm trong(7)
Công quả
đã tròn nền Diệu đức
Phẩm tài
chị kém bạn Phương Dung(8)
Nên cao đuốc
tuệ cho bồ liễu
Như mảnh
trăng tròn giữa biển đông.
Đạm
Phương nữ sĩ
Chùa
Hồng ân 1950
Sau khi đã
làm xong nhà hậu tại chùa Diệu Đức, tôi bị tình nghi là
có liên lạc với cách mạng vì thư từ ngoài Bắc gửi về
quá nhiều. Nguyên do khi 2 vợ chồng cụ Ưng Úy được đưa
ra Bắc thì bạn bè, chị em ngoài ấy viết thư rất nhiều
mời tôi ra hiệp tác. Tôi bị kêu lên kêu xuống hoài để
hỏi. Trong chùa quá sợ, tôi phải xin lên ở đỡ tại chùa
Trúc lâm và để làm ngôi chùa Hồng Ân. Họ hỏi: Vì sao mà
bà nhận được nhiều thư từ ngoài ấy mãi hoài như vậy?
Tôi đáp: "Vì gia đình anh chị em đều ở ngoài ấy, bạn
bè của tôi cũng ở ngoài ấy nên vậy đó. Nhưng chủ yếu
các vị có bắt được thư trả lời của tôi không? Nếu
có bắt được thư từ trao đổi thì mới làm dễ, còn nếu
họ kêu gọi mà tôi không đi là quý, sao các ông còn làm rắc
rối tôi? Nếu quý vị mà bức tôi, có lẽ tôi theo họ cho
rồi!" Cũng từ đó về sau, tôi mới được yên ổn chút ít:
Cũng do vậy mà tôi không dám trả lời công khai mà chỉ có
1 bài thơ gửi báo "Giải phóng" dưới nhan đề là người
vô danh miền Nam
Xin chép bài
thơ trên:
Gửi
chị em phụ nữ
Cũng muốn cùng
nhau vẹn chữ đòng
Nhưng vì ý
chí cách Tây-Đông
Bước đường
hoạt động đành hai ngã
Khung khổ
Từ bi đóng bịt bùng
Lấp bể,
khuyên ai tròn nguyện ước
Vá trời,
lắm kẻ đứng ngồi trông
Noi gương
Trưng Triệu mà đi tới
Sau trước
sao cho rạng má hồng.
Vô
danh thị
Tiếp đó,
Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về. Lúc ban đầu còn nhẹ, sau quá
tệ đối với Phật giáo, tiếp đó đến cuộc đổ máu tại
đài phát thanh. Anh chị em sinh viên biểu tình bị bắt bớ,
giam tù. Cuộc vận động "5 nguyện vọng Phật giáo" bùng nổ.
Một hôm, tôi
được mời về Từ Đàm họp. Thượng tọa Trí Quang nói:
Miền Nam im lìm vậy, làm sao có đông Tăng Ni hưởng hứng?
T.T Thiện Minh: “Phải có người hy sinh mới xong”. Tôi hỏi:
“Hy sinh đây là chết phải không? T.T Trí Quang đáp là “phải”,
“Vậy tôi xin đứng đầu đội cảm tử cho”. Hòa Thượng
Thiền Tôn hỏi: H.T Mật Hiển đại diện cho Trúc Lâm có cho
phép không? H.T Mật Hiển: "Vị Pháp(9)
hy sinh ai lại dám cản" Thế là một bức thư viết cho miền
Nam và 1 tờ phát nguyện được ký tên vào.
Chiều hôm
đó, bà Diệu Huệ tức là bà Ưng Úy cũng xin hy sinh đi với
tôi vào Nam do T.T Thiện Minh dẫn đầu vào Nam vận động Phật
giáo
Ba chúng tôi
lên máy bay. Đi đưa có 2 T.T Mật Hiển, Mật Nguyện không
khóc mà rơi lụy. Vào sài Gòn, chúng tôi đến Ấn Quang chào
các Ngài xong về ở tại Từ Nghiêm. Chiều lại chùa Ấn Quang
cho họp toàn ni bộ đến đó hội họp. Sau sự trình bày,
T.T Thiện Minh đọc các tờ phát nguyện, các Tăng Ni đều
khóc. Hòa Thượng Thiện Hoa nói: "Chúng tôi xin tán thán lòng
vị pháp vong thân của 2 Bà, là một dương sáng cho Phật giáo,
nhưng phải để bàn bạc lại đã".
Chúng tôi về
Từ Nghiêm nghỉ 2 ngày. Qua ngày sau có cuộc tuyệt thực ở
2 chùa Ấn Quang và Xá Lợi. Trong 24 tiếng. Cuộc tuyệt thực
này có 300 ny sư và 250 Tăng hưởng ứng 1 ngày 1 đêm tụng
kinh liên tiếp không ngủ. Riêng tôi chuyện tụng bộ Thủy
sám để chờ đợi cái chết sắp tới.
Không ngờ
khi chư Tăng về đến Ấn Quang, thì hòa thượng Thiện Hoa
cho gọi tôi và dạy rằng: "Bà không được chết, đã có
ngài Quảng Đức đảm nhiệm”. Tôi bạch: “hiện Ngài ở
đâu? Khi lên phòng trên, tôi thấy Ngài đắp y đang đi xuống.
Tôi theo hầu phía sau và xin cho con được như nguyện. Ngài
dạy: “Chư Tăng đã định rồi, không cải lại được. Tôi
thưa lần nữa, Ngài quở và dạy: "Ny phải y Tăng, sao con lại
cãi lời? Và dạy tiếp: "để Thầy thực hiện trước, khỏi
nhục thể cho Tăng già, chư Tăng đã định con phải sống
để phụng sự Đạo. Con nên rõ 5 phút tự thiêu tuy khó mà
dể, còn duy trì Phật giáo tương lai ngàn năm mới là khó
làm. Con nên ráng sống cho Đạo, còn Thầy năm nay đã 72 tuổi
rồi, hy sinh là phải hơn"
Nói xong, thấy
tôi khóc, Thầy bảo vào lạy Phật và cho con xuống để Thầy
còn tụng kinh. Tôi lạy Phật xong, cúi lạy Thầy 3 lạy và
đi về.
Tôi không quên
các lời dạy ấy, mỗi khi bối rối, mệt mỏi, tôi lại nhớ
lời Ngài dặn và bao nhiêu mệt mỏi đều tan biến.
Lại nói đến
sau cuộc tuyệt thực trên, một hôm có 1 Thầy đến bảo có
4 xe để đoán 200 vị đi đám chay. Riêng tôi, Thầy cho biết
là xe đến trước Quốc hội, xe sẽ ngừng lại và sẽ có
các vị Tăng điều khiển. Đến trước Quốc hội rồi, quý
Thầy ở đây đã bố trí cho ngồi xuống ở bãi cơ, một
số khác đem "5 nguyện vọng" vào trong nhà Quốc hội, mãi
đến chiều mới có xe đón về, mở màn tranh đấu ở miền
Nam Việt Nam. Sau các cuộc tranh đấu vận động thành lập
2 ủy ban:
1 ban Phật
giáo, 1 ban chính phủ, nghiên cứu mấy tháng trời mà không
giải quyết, và cuối cùng có cuộc tự thiêu của Thầy Quảng
Đức làm chấn động cả thế giới. Khi ra Hà Nội 1978, tôi
có đi thăm tượng Ngài, do Hồ Chủ Tịch cho dựng lên để
kye niệm Ngài.
Cuộc vận
động nêu rõ tình thần bất khuất dưới sự áp bức của
ngoại quốc và ngoại giáo, tiếp theo có nhiều Tăng, Ny đã
hy sinh có đến 15 người và nhiều số người cảm tử ghi
tên nữa.
Việc này đã
có "Phật giáo lịch sử tranh đấu" chép rõ, tôi chỉ ghi việc
tôi đã tham gia.
Sai khi Liên
hiệp quốc qua điều tra, họ đã phỏng vấn tôi 2 phen ở
Từ Đàm và 1 lần ở Xá Lợi tự ở Sài Gòn.
Tại chùa Từ
Đàm họ hỏi: Theo sự điều tra của chúng tôi thấy theo hồ
sơ của ông Ngô Đình Diệm cho biết là trước khi ông làm
Tổng Thống Phật giáo chỉ có 3 phần, nay tăng 8 lần, sao
nói ông Diệm đàn áp Phật giáo?
Tôi đáp: “Vâng,
có như vậy. Người Việt Nam đa số là Phật tử, tuy không
thờ Phật tại nhà, nhưng khi có tang lễ, ngày kỵ giỗ, họ
mới thỉnh Phật và mời Thầy về tụng kinh. Từ khi ông Ngô
Đình Nhu lập ấp chiến lược ra lệnh cho dân "ai mà không
có tôn giáo là theo cộng sản". Người dân sợ quá, họ lên
các chùa xin tượng Phật về thờ. Chúng tôi đã cho ai hàng
triệu triệu bức ảnh Phật mà vẫn không đủ cung cấp tín
đồ Phật giáo để thờ.
Vậy vì vô
tình, 2 anh em cụ Ngô đã cổ động toàn dân thờ Phật, vì
họ rất sợ chính phủ ghép họ là Việt Cộng, hoặc bị
bắt ép họ phải theo đạo Thiên chúa hoặc Tin lành v.v...Cũng
lý do đó mà phong trào lập chùa, ăn chay, niệm Phật ngày
càng gia tăng vì họ thấy đạo Phật là đạo của ông bà,
cha mẹ họ đã từ hàng ngàn năm qua”. Phái đoàn L.H.Q cho
là phải, đó là do sự phản ứng, là luật tự nhiên để
giữ Đạo của họ.
Một lần ở
chùa Xá Lợi họ hỏi tôi: các nhà lãnh đạo Phật giáo có
phải là người công sản không?
Tôi đáp: “Theo
giáo lý Phật giáo thì không theo Duy Vật cũng không theo Duy
Tâm mà cũng không bỏ nó, khi tâm thắng vật là khi tinh thần
lên cao, khi vật thắng tâm là khi bị xác thịt lôi kéo. Cũng
như Ngài Quảng Đức ngồi yên lặng trong lửa là tâm thắng
vật vậy".
Họ lại hỏi:
hai thầy Trí Quang và Thiện Minh có phải là người nằm vùng
của cộng sản không?
Tôi đáp: “hai
Thầy này tôi biết họ từ lúc 9, 10 tuổi đã vào ở chùa
và học đạo Phật cho tới nay nên theo tôi họ không thể
là cộng sản được, còn lý thuyết cộng sản đâu có gì
cao xa hơn Phật giáo mà họ theo?"
Một lần nữa
khi họp báo ở chùa Xá Lợi có bà Mẹ của Bửu Hội ở đó.
Vì Bà không nói được tiếng Pháp nên tôi đã trả lời thay.
Họ hỏi: ông
Bửu Hội nói Phật giáo bắt buộc người tự thiêu để tranh
đấu có phải vậy không?
Tôi đáp: -
Chúng tôi tự nguyện có giấy hẳn hoi, chứ không ai bắt buộc
Hỏi: Vì sao
các bà lại tự nguyện để tranh đấu?
Vì sống dưới
chế độ bất công, thiên vị, nên chúng tôi muốn cúng dường
thân này để kêu gọi lẽ phải của loài người trở lại
với lương tri, đừng dùng thế lực mạnh mà đàn áp kẻ
yếu.
Hỏi: Nếu
ông Bửu Hội đứng về phe ông Diệm, các Bà nghĩ sao?
Đáp: Thì chúng
tôi sẽ từ nó, không nhận nó là con, là cháu trong gia đình
chúng tôi nữa vì gia đình chúng tôi đều là phật tử cả.
Liên hiệp
quốc sau đó nhiều phen muốn gặp mà Qúi Ngài đều từ chối
vì bận công việc.
Tôi còn nhớ
một việc khi ông Diệm đã đổ rồi. Tôi nghe radio nói LHQ
đã giúp dân Việt Nam hàng 10 tỷ bạc, trong lúc ấy người
dân quá cực khổ. Lúc ấy Phật giáo không thể ngồi yên,
xin viện trợ các nước. Họ hỏi: Vậy LHQ đã giúp cho vậy
ai nhận? Tôi đương danh xã hội Phật giáo toàn quốc Việt
Nam trả lời một bức thư là Phật giáo không nhận.
Bức thư ấy
làm cho người Mỹ giận quá, nên họ yêu cầu gặp tôi. Được
tin Sàigòn gọi tôi vào, họ đưa tôi lên 1 nhà cao 6 tầng
và bảo tôi đợi 10 phút. Khi ấy có ông Trần Quang Thuận
đi theo tôi.
Ông đại diện
hỏi: Vì sao Bà nói là LHQ không giúp trong khi chúng tôi gửi
hàng tỷ bạc qua quỹ nhà Băng (banque) Thiên Chúa giáo vì Phật
Giáo không có nhà băng.
Tôi hỏi lại:
Ông đại diện có công nhận 80% dân chúng là Phật tử, mà
Thiên chúa giáo chỉ có 10%?
Đáp: Chúng
tôi công nhận như vậy song hỏi thì họ nói Phật giáo không
có người lo xã hội.
Tôi hỏi lại:
Một đạo giáo có 80% dân mà không lo cứu tế họ thì họ
có sống được đến nay không?
Họ hỏi: Cứu
bằng cách nào?
Đáp: Bằng
cách khuyên họ nên giúp đỡ nhau như: 1 chùa là một cơ quan
cứu tế, khi có hoạn nạn vị Trụ trì kêu gọi các Phật
tử góp tay giúp nhau trong cơn hoạn nạn. Mỗi tỉnh và cả
nước đều như vậy cả.
Họ lại hỏi:
Vậy mỗi tỉnh có ban xã hội không? Tôi đáp là "có".
Một cuộc
họp Phật giáo toàn quốc về cứu tế xã hội. Họ cho mời
riêng tôi đến và đề nghị sẽ giao việc cứu giúp dân Phật
giáo mỗi năm 2 tỷ đôla.
Tôi góp ý
nếu có ý cứu giúp dân Việt Nam Phật giáo thì nên giao cho
chính phủ chứ đừng giao cho bên Thiên Chúa giáo nữa.
Pháp trước
kia cũng như Mỹ ngày nay không mua được Phật giáo nên sau
đó họ làm khó dễ chúng tôi nhiều hơn.
Mặc dù vậy
mà các nước tự do khác cũng có giúp như nhóm ? Mỹ, các
nước anh, Thụy Sĩ, thỉnh thoảng vẫn cho người qua gặp
chúng tôi giúp đỡ và đã lập được nhiều ký nhi viện
do các ni cô phụ trách và hơn 200 trường Bồ đề từ Tiểu,
Trung học, 1 trường Đại học Vạn hạnh, 1 trường thanh niên
phụng sự xã hội ở Sài Gòn.
Sau vụ Diệm-Nhu
bị giết năm 1963, Phật giáo có cơ phụ hưng sau đó lại
bị nạn Thiệu - Kỳ v.v... đàn áp 1966 lại có việc tự thiêu
và thượng tọa Trí Quang tuyệt thực 100 ngày để phản đối.
Nhân nhớ lại bài thơ "khóc Ngài Quảng Đức" xin ghi lại:
Thầy ơi! Con
biết tính sao đây?
Lễ , lòng
đau trước thánh thây
Lửa dây lưng
trời, thân chẳng động
Dầu loang
khắp đất, ý không lay
Tiêu diêu
cõi Tịnh, Thầy theo Phật
Lận đận,
trần lao con nhớ Thầy
Phật tử
Việt Nam còn nhớ mãi
Nét son lịch
sử vẫn không phai
*
* *
Nhớ lại cuộc
đấu tranh mà rùng mình, nào là lưỡi lê, dùi cui đập lên
đầu người. Các Tăng, Ny bị ngã gục, nhịn đói, tù tội
vẫn hy sinh không nao núng tiến bước đi lên.
Tôi vẫn còn
nhớ khi các cấp lãnh đạo ở chùa Từ Đàm Huế bị bắt,
các vị ở chùa Xá Lợi Sài gòn bị đem giam, T.T Trí Quang
được đại sứ Mỹ cho tá túc. Tinh thần Phật Tử sa sút.
Chi còn mình tôi bị sót ở ngoài vì hôm ấy tôi bị đau không
ra Từ Đàm được. Mấy ngày sau đó, tụi lính luôn đi lùng,
tôi ngồi trì chú Đại bi ở trước bàn Phật của chùa Hồng
Ân. Một số trong bọn chúng biết mặt tôi, thấy tôi ngồi
nhắm mắt nói với nhau: "chính bà ấy đó!", nhưng có người
khác lại nói: "anh ngu lắm, bà ấy đâu dám ngồi đó, phải
đi tìm khắp các hang, các hố, chắc bà ta trốn đó"
Lúc bấy giờ,
tôi chỉ có cách nhờ Phật che chở bằng lối trì chú Mật
tôn, mà thật đã 5 ngày như vậy nó vẫn chưa bắt được
tôi. Sau bọn chúng dọa các Cô trong chùa bảo tìm cho ra bà
ấy, nếu không thì giam các Cô hết.
Tôi phải nói
với chúng hãy về chùa Diệu Đức vào ngày mai lúc 9 giờ
sáng sẽ gặp.
Hôm sau, khi
1 chiếc xe Jeep và 2 tên lính tới chùa, tôi bảo: "anh hãy đọc
bản án bắt tôi vì tội gì, tôi mới đi, nếu không 2 anh
đem súng đến dẫn tôi đi với 1 người nữa” Chúng nó về
trình lại. Ông Ngô Đình Cẩn nói: "Bà ấy lôi thôi lắm,
chắc lại muốn lấy bằng cớ gởi qua Liên hiệp quốc chứ
gì! Và cho người ra hẹn tôi vào chùa Thiền Tôn gặp, ông
sẽ ghé đó nói chuyện. Nhân có Hòa Thượng Thiền Tôn tôi
nói: "Hành động của 2 ông bà Ngô Đình Nhu làm cho dân bất
phục quá lắm rồi!" Ông Cẩn hứa xin thả hết Tăng, Ny còn
cấp lãnh đạo đã đem vào Sàigòn hết rồi, trừ thầy Đôn
Hậu còn nằm tại nhà thương.
Tôi phải cho
các Cô cải trang đem thư đi các tỉnh cố giữ tình thần
đấu tranh bền bỉ cho đến ngày Phật giáo thuần túy ra Huế,
đem theo 2 T.T Mật Hiển và Mật Nguyên thì tình hình ở Huế
mới bớt căng thẳng. Còn ở Sài gòn các Tăng, Ny vẫn bị
giam: Hòa Thượng Tịnh Khiét và bà Diệu Huệ đưa về Ấn
Quang vẫn bị giam lỏng kéo dài ngày cho đến ngày các tướng
tá phản bội lại ông Diệm khi họ nghe bức thư của bà Diệu
Huệ từ bỏ Bửu Hội. Cuộc đảo chánh đã chín muồi, nổ
ra ngày 1-11-1963 và chấm dứt các cuộc tù đày, bắt bớ.
Tất cả các Tăng Ny Phật giáo đều được thả ra, ai về
chùa nấy.
Đầu năm 1964,
Phật giáo nhóm lại thành 11 tập đoàn lập thành Phật giáo
thống nhất, trụ sở chính tại chùa Ấn Quang.
Để duy trì
sự học tập, Tăng Ny Phật tử lập 1 trường Đại học “Vạn
Hạnh" và 1 trường "Thanh niên phụng sự xã hội", những người
không đậu Tú tài được vào học.
Vạn Hạnh
mở một khoa Phật học và 2 khoa Văn học và Sư phạm. Người
nào đã được 4 khoa, sẽ được cấp học bổng đi nước
ngoài học với bằng cử nhân sư phạm. Ngoại ngữ là khoa
bắt buộc ở trường. Thuần túy Hán Văn và Pali văieät nam
cũng được dạy đủ dùng để đọc sách.
Cho đến năm
1975, sinh viên Vạn hạnh đã lên đến 10.000. Cuộc đảo chánh
ở Sài gòn cũng có sinh viên tham gia, thu súng của cảnh sát
và thay vào đó là lá cờ giải phóng hoặc là Phật kỹ. đứng
giữ trật tự thành phố. Với gần 10.000 lá cờ giải phóng
may sẵn, nam nữ sinh viên đã cùng dân chúng cầm cờ Phật
giáo đứng từ bên kia cầu xa lộ vào.
Một niềm
vui chưa từng thấy khi nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng. Anh em giải phóng cũng như dân chúng reo cười khắp đường
phố Sài gòn. Già trẻ, lớn bé đua nhau đi đón bộ đội.
Chúng tôi tổ chức khao quân. “Vạn Hạnh" tổ chức thành
4 đoàn gồm các mẹ, chị em phụ nữ, thanh niên, các phụ
lão mua 1/2 triệu đồng mua bánh kẹo, đồ trái chở trên 4
xe camion. Đi đầu có các biểu ngữ hoan nghênh quân giải phóng.
Đi đến gần dinh Độc lập có người ra đón, khách chủ
hàn huyên, khóc cười lẫn lộn, và xúc động tưởng niệm
kẻ mất, người còn. Ba mươi năm đấu tranh ngừng, mới có
ngày nay, là ngày độc lập thật sự của đất nước, nhân
dân ta.
Cuối cùng,
sau khi người Mỹ ra đi, đem theo tất cả tập đoàn của họ.
Còn người yêu nước vẫn yên ổn chờ đợi chính quyền
mới.
Nhớ lại năm
1969 lúc biến cố ở Huế sôi động, tôi đang ở Sàigòn để
đi thăm các Phật tử bị giam cầm trong dịp Tết có đến
2.000 người.
Sài gòn lúc
ấy còn rải rác thấy quân giải phóng, đến ngày mồng 5
ta thì biến mất, và xuất hiện quân của Thiệu - Kỳ đóng
khắp Sài gòn. Nghe biến cố ở Huế, tôi đi tàu bay về Đà
Nẵng, nhưng vẫn không ra Huế được. Đến 10 ngày sau có
người vào cho biết Hòa Thượng Đôn Hậu đã ra đi và quân
giải phóng đã lui. Chúng tôi thuê một chiếc sà lúp chở
đồ cứu tế ra tại chùa Diệu Đế, thấy cầu Trường Tiền
sụp đổ 1 vài rồi, phải đi đò qua sông để đi thăm các
chùa ở núi.
Đến chùa
Bảo Quốc, thấy cháy tan cả, lần lượt đi các chùa, chỗ
nào cũng bị hư nát, chư Tăng, Ni đi trốn hết. Thật buồn
khi trở về chùa Trúc Lâm, Hồng ân thấy cảnh thật điêu
tàn, hố bom đạn loang lổ, lòng không khỏi xót xa!
Tình hình ở
Sài gòn năm 1975 đã diễn ra hoàn toàn khác.
Tập IV
Từ năm
1975- 1985
Giải phóng
quân vào Sàigòn
Trong khi dân chúng vui mừng đón
tiếp thì ở Dinh Độc lập một biến sự xảy ra:
Nguyên ông Dương Văn Minh đề
nghị để một nhà nhỏ ở vườn Tao đàn làm chỗ Hội nghị
của 3 thành phần:
- Giải phóng miền Nam
- Giải phóng miền Bắc
- Chính quyền miền Nam
Để bàn buộc Mỹ quốc phải
bồi thường chiến tranh theo hiệp nghị Geneve đã hứa đề
nghị trong cuộc họp 1972.
Việc này không được chính
quyền Hà Nội chấp nhận vì nghi cho ông Dương Văn Minh đại
diện cho Phật giáo còn ưng bấm lấy chính quyền miền Nam.
Tôi về thăm Hòa Thượng Trí Thủ mới biết thật là sự
hiểu lầm cho Phật giáo thật tai hại, vì nếu Phật giáo
có ý đồ tham gia chính trị thì khi chính quyền ông Diệm
sụp đổ, ai không cho Phật giáo làm? Vậy mà Phật giáo vẫn
rút lui vào hậu trường. Phật giáo chỉ muốn duy trì đạo
đức mà không muốn tham gia chính trị. Nói xong: Hòa Thượng
thở dài, tôi chào để xin về Huế trong lúc Vạn Hạnh làm
thủ tục để giao trường Đại học và chỉ chở kinh sách
Phật giáo lên. Võ Di Nguy là cơ quan mà Vạn hạnh định làm
khóa Phật học do Hòa Thượng Minh Châu ở đó.
Sự lầm ấy đã đưa tai hại
đến cho Phật giáo. 5 năm bị đàn ép nhất là ở thôn quê
đến nổi có cuộc cả chùa áo vàng tự thiêu làm ? ra cả
đến nước ngoài. Họ cho Phật giáo bị Cọng sản đàn ép.
Trong khi đó cấp lãnh đạo Phật
giáo vẫn bình tĩnh xem sự hiểu lầm đó sẽ đi đến đâu.
Cho đến 1980 mới kêu gọi Phật giáo đoàn kết và thảo Hiến
chương xong. Và đến 1981 mới có cuộc nhóm họp tại Hà Nội.
Có đến 187 đại biểu Phật giáo các ngành được sự đón
tiếp nồng hậu của các cấp chánh quyền. Thủ tướng Phạm
Văn Đồng cũng đã nêu lên công lao đóng góp của Phật giáo
cho nền độc lập hiện thời, điều này đã nói rõ trong
các bài diễn văn của chính quyền.
Hôm đó, tôi được cử phát
biểu ý kiến trên đài phát thanh. Họ đưa tôi lên một căn
phòng và bảo tôi nói vào trong máy thu phát.
Câu 1:
- Người phát thanh: “Vừa rồi
đài phát thanh nước ngoài nói chính quyền bắt buộc các
đại biểu ra Hà Nội làm việc cho chính quyền, có đúng vậy
không?
- Tôi đáp: đời chính phủ Ngô
Đình Diệm mà còn không bắt được chúng tôi theo họ từ
khi họ đem súng đến dẫn vào nhà tù. Nay là chính quyền
của dân sao có chuyện bắt buộc?
- Hỏi: Vậy sao các đại biểu
ra đây họp?
- Đáp: vì đã 5 năm nay, Phật
tử ở thôn quê quá khốn khổ khi hành đạo. Vì vậy cấp
lãnh đạo buộc lòng phải thảo Hiến chương Phật giáo và
xin ra yết kiến Thủ tướng về tự do tín ngưỡng trong dân
chúng. Vì vậy, mới có cuộc họp này.
- Hỏi: Ra đây, chính quyền đối
với quý vị thế nào?
- Đáp: Nếu không tốt, làm sao
chúng tôi ra được đến ngoài này, được bố trí việc ăn
ở cho số đông người, lại có xe đưa rước.
Câu 2:
- Phát ngôn viên hỏi: Phật giáo
và mác xít có điểm nào giống nhau không?
- Đáp: Mác-xít nói “mình vì
mọi người, mọi người vì mình", còn Phật giáo nói: "Phải
vô ngã, lợi tha là điểm tương đồng trên lý thuyết, song
người Phật tử còn phải giữ giới...
- Hỏi: Quý vị có hy vọng sẽ
được duyệt y bản. Hiến chương Phật giáo không?
- Đáp: Vì là một nước xã
hội chủ nghĩa, nên người dân có quyền đòi hỏi quyền
lợi chính đáng ghi ở Hiến pháp Việt Nam.
Câu 3:
- Phát ngôn viên: Bà có muốn
nhắn gì với Tăng, Ny Phật tử hải ngoại không?
- Đáp: Qua làn sóng điện Việt
Nam tôi xin gửi đến quý vị Tăng, Ny và Phật tử ở khắp
5 châu lời thăm hỏi đầy tình cảm của người đồng dao.
Xin quý vị dù đi đâu, ở đâu quý vị cũng nên nhớ Phật
giáo có từ 2.000 năm trên đất nước ta, nên trong giòng máu
người Việt Nam đều có giống của Phật, của ông bà nhiều
đời để lại. Chúng ta có những vị như Trần Nhân Tôn đời
Trần, đời Lý, Lê...?. Gần đây có như ngài Quảng Đức
đã làm rạng danh cho Phật giáo cũng như đất nước. Nhật
bản có bài báo đã tôn Phật giáo Việt Nam là anh cả trong
miền Đông nam á. Vậy mong quý vị luôn nhớ làm rạng danh
cho Phật giáo nước nhà.
Câu 4:
- Phát ngôn viên: Bà có muốn
nói gì với đồng bào hải ngoại không phải Phật tử không?
- Đáp: có
Tôi xin gửi đến đồng bào
các giới khắp trên địa cầu, lời cầu chúc tốt đẹp nhất.
Dù xa quê hương, quý vị luôn nhớ mình là người Việt Nam
luôn nhớ nguồn gốc mà dạy dổ con cháu lấy hiếu để làm
trọng, yêu nước, yêu đồng bào, biết đến tổ quốc quê
hương và không quên nếp sống Việt Nam.
Câu 5:
- Phát ngôn viên: Bà có muốn
nói gì nữa không?
- Đáp: Tôi xin kết thúc lời
nhắn giử ở đây và rất mong đợi hòa bình thực sự sẽ
đến với nhân loại, đừng vì thù hận mà giết nhau bằng
nguyên tử. vậy trước hết, xin phải coi hòa bình ở nội
tâm của mỗi người.
Cuộc trao đổi đã dứt, nghe
dưới hội trường cất tiếng niệm Phật. Tôi ra về ở lại
chùa Sư nữ Quang Hoa. Hôm sau tôi bị ốm, nên không theo phái
đoàn lên dinh Thủ tướng để đưa kiến nghị được.
Có người di về cho biết cuộc
tiếp xúc của Thủ tướng, hội đồng bộ trưởng và Đoàn
rất lý thú đại để:
+ Thủ tướng:
- Quý vị: nhóm họp đã xong?
Hòa thượng Trí Thủ:
- Dạ, chưa xong.
- Sao mà chưa xong?
- Vì Hòa Thượng Pháp chủ chúng
tôi đòi xin 3 câu trả lời mới dám nhận.
- 3 câu gì?
1. Có cho lập trường học Phật
không?
2. có được dạy giáo lý cho
Phật tử không?
3. Có được tự bố trí Trụ
trì để giữ gìn công tự không? Hay nhà nước tự bổ người
coi ngó?
Nếu được Thủ tướng hứa
cho, thì Ngài Pháp chủ chúng tôi mới dám nhận.
Thủ tướng nhìn quanh hội trường
gồm 186 đại biểu và gần 200 Phật tử đang ngóng chờ câu
trả lời rồi nói:
“Thể theo truyền thống Phật
giáo từ xưa đến nay, chưa từng phản bội tổ quốc, tôi
xin hứa sẽ y 3 việc trên để hoàn thành cuộc họp. Thủ
tướng vừa dứt lời thì tiếng vỗ tay của cả 2 bên vang
dội giữa hội trường không ngớt. Mọi người vui vẻ, đoàn
chúng tôi ra về, hoan hỷ.
Sau đó, Thượng tọa Thích Minh
Châu và H.T Thiện Siêu thảo đơn và điều lệ, lập trường
ngay ở chùa Quán sứ, thông báo cho các tỉnh miền Bắc mỗi
tỉnh cử 2 Tăng hoặc Ny về học trong ? năm. Chỉ 10 ngày sau
đã làm lễ khai giảng T.T Chánh Trực và tôi còn ở lại dự
lễ khai giảng đó.
Đoàn ra về với niềm hy vọng
trường học Phật ở T.P Hồ Chí Minh và ở (trung phần) Huế
cũng sẽ tiếp tục được mở. Vậy mà mãi 2 năm sau tức
1983 mới được giấy phép ở thành phố Hồ Chí Minh còn Huế
vẫn chưa được chính thức.
Riêng tôi, rất hy vọng Huế
cũng được như Nam và Bắc có được 1 trường cao cấp vì
với số Tăng Ni ? trên có người hiện nay chưa được vào
lớp vì điều kiện kinh tế, nên việc học còn khó hơn ở
Nam.
Ở Bắc, trường học tuy đã
tốt nhưng số học chính thức còn ít, phần dự thính đông
hơn. Ở trong Nam đã có 62 chính thức và số dự bị cũng
có điều kiện tiếp tục học.
Ngoài việc lập trường học,
hội còn ra được tờ báo hàng tuần có tên "Giác ngộ" và
tờ báo 3 tháng 1 kỳ vào các dịp ngày lễ lớn như ngày Phật
đãn, Phật thành Đạo...
Về kinh sách Phật giáo: Thượng
tọa Thích Minh Châu dịch văieät nam Pali được 4 bộ A- Hàm.
Về luật, H.T Thích Đôn Hậu mới được phép in. Tôi cũng
xin in bộ Thành Duy Thức - Huyền Trang do Ngài Khuy Cơ giải
rõ gồn 60 quyển và bộ Đại Trí Độ Luận gồm 100 quyển
của Ngài Long Thọ do Ngài Cưu-ma-la-thập giảng giải rất
rõ.
Nếu các bộ sách này được
in ra sẽ thỏa mãn cho toàn tín đồ học Phật. Duy Thức là
Pháp tướng. Đại Trí Độ Luận là Pháp tánh rất đầy đủ
ở 2 bộ sách này...
Kết luận
Tôi hy vọng sau này sẽ cógười
phiên dịch ra tiếng Việt cùng tất cả các kinh Phật để
làm kim chỉ nam cho Phật tử Việt Nam. Một tạng kinh về tiếng
Việt sẽ là 1 kho tàng vô giá cho quốc gia Việt Nam ta, mà
cũng là kho tàng vô giá cho các học thuyết mà Phật học đã
chứa đựng.
Chỉ tiếc người học Phật
Việt Nam chưa đủ tài năng khai thác và rất ít người lưu
ý phiên dịch kho tàng ấy.
Tôi xem qua mới được mấy ngàn
quyển mà nhiều chỗ còn thấy còn phải nghiên cứu kỹ để
thấu hiểu hết ý nghĩa sâu xa.
Nhưng nay tuổi tròn 80 rồi, mắt
đã mờ và đọc nhiều thì quá mệt mỏi, đành phải nghỉ,
tự thấy mình còn quá ngu dốt đi với kinh Phật là kho tàng
vô giá mà người trí thức con Phật quá nghèo nàn khác nào
trong kinh Pháp hoa có đoạn "cha giàu, con vẫn nghèo, cho rằng
công việc dọn phân suốt đời là đủ, cha cho xe "bạch ngưu"
mà không nhận.
Tự thấy mình đã 60 năm học
Phật vẫn chưa đủ trí tuệ để nghiên cứu kho tàng vô giá
kia vì trong đó chứa đựng tất cả các học thuyết Đông,
Tây, Kim, Cổ, mà sức mình còn quá thấp
Tôi chỉ mong các bậc cao minh
gắng học hỏi, đem tài năng để giới thiệu cho đời biết
Phật mà học hỏi tìm hiểu rõ ràng hơn. Nhưng học mà không
tu, vẫn không sao hiểu ví như nhà Bác học lý thuyết giỏi
mà thiếu kinh nghiệm thực tế trong các viện nghiên cứu,
thiếu dụng cụ thực nghiệm thì vẫn khó thuyết minh, cũng
không ứng dụng được cho đời được kết quả thực tế.
Khoa tâm học là một khoa vô
cùng phức tạp, mà lại là cái chìa khóa mở các cửa, các
môn học khác nên không thể quên cái gốc mà đi tìm ngành
ngọn khác.
Ví như người mất trí mà đi
tìm hạnh phúc ở ngoại cảnh, càng tìm càng xa, nhưng nếu
được người dạy cho tỉnh trí rồi thì hạnh phúc ở ngay
trước mắt.
Trường hợp này, tôi đã đi
qua. Tôi cũng đã đóng cửa đọc sách 10 năm, theo chủ nghĩa
này, chủ nghĩa khác, nhưng rồi nhờ vị Thuyền sư chỉ rõ
cho cái tâm là gốc, và tìm được gốc rồi, thì ngành ngọn
đều rõ.
Phần này, không những chỉ áp
dụng cho riêng tôi mà còn phổ biến cho bao người xung quanh,
cho chị em phụ nữ, những quả phụ đều cũng trở nên có
tâm hồn cứng rắn, dũng cảm, gánh vác gia đình và công tác
xã hội, xứng đáng là những bà nội tướng giỏi mọi mặt.
Đó là những bà mẹ, bà chị
quý hóa, đáng kính trọng, đáng làm gương cho phụ nữ Việt
Nam và phụ nữ toàn thế giới vậy. Có bài thơ:
Treo gương Đức dục chị em
ơi!
Giá trị quần thoa chỉ thế
thôi
Đất Á, nguyền xoay nhơn nghĩa
lại
Trời Nam, quyết phá quỷ, ma
lụi
Đem gương Trí tuệ của xiềng
xích
Lấy súng Từ bi, bắn hỏa lôi
Nhẫn lực, thắng hơn
tất cả lực
Chị em gắng bước
chớ nên lùi
***
./.
|