Tết,
ngoài ý nghĩa lễ hội văn hóa còn là thời điểm các cổ
tục được biểu hiện rõ nét nhất. Đối với người nước
ngoài, tết và phong tục Việt được ghi chép qua các tư liệu
của họ là những trang ký ức mang màu sắc hoài niệm của
những ngày xa xưa nhưng không kém phần thú vị.
Nhiều vị khách
nước ngoài, với các lý do khác nhau, đã đến những vùng
miền nước Việt từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ
XX như Christophoro Borri, John Barrow, Hòa thượng Thạch Liêm (Thích
Đại Sán), Gabrielle-Maud Candler Vassal hay Leopold Cadiere. Họ chứng
kiến người Việt ăn/vui/chơi tết với những nét độc đáo,
mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc nên đã ghi chép lại.
Các trước tác của họ tường thuật cụ thể về tết Việt.
Cũng có trường hợp tác giả lưu trú ở nước ta nhiều hơn
một năm, không mô tả riêng về lễ hội đầu năm này nhưng
qua các trang "tường trình" đã giúp khắc họa lại khung cảnh
tết, cùng các phong tục xưa của người Việt.
Trước hết, Christophoro
Borri đã đến Quảng Nam - Quy Nhơn từ năm 1618 đến 1622 [1].
Trong 4 năm ở đây, qua tập sách Xứ Đàng Trong năm 1621,
ông cho biết nét chung về văn hóa ứng xử cộng đồng ở
người Việt là "họ đặc biệt kính trọng người già nua
tuổi tác, bao giờ họ cũng nể người có tuổi hơn. Trong
mọi việc, ở vào bất cứ cấp bậc nào, gia thế nào, bao
giờ họ cũng nhường ưu tiên cho người già hơn." [1, 53].
Về ăn uống, tác giả rất chí lý khi viết: "Thức ăn thông
thường nhất của người Đàng Trong là cơm và thật là điều
kỳ lạ: toàn lãnh thổ có rất nhiều thứ thịt, gà, vịt,
cá và trái cây đủ loại, thế mà bữa ăn ngon nhất lại
là cơm, ..." [1, 59 - 60] và thức uống trong bữa ăn là rượu
gạo, sau khi ăn là trà. [2]
Về giao tiếp, tác giả đã có sự so sánh khá thú vị nét
văn hóa này của người Việt (ít nhất ở Đàng Trong) với
các dân tộc khác như sau: "Tất cả các nước phương Đông
đều cho người châu Âu là những kẻ xa lạ và dĩ nhiên là
họ ghét mặt đến nỗi khi chúng ta vào lãnh thổ họ thì
tất cả đều bỏ trốn. Thế nhưng trái lại ở xứ Đàng
Trong, họ đua nhau đến gần chúng ta, trao đổi với chúng
ta trăm nghìn thứ, họ mời chúng ta dùng cơm với họ. Tóm
lại họ rất xã giao, lịch sự và thân mật đối với chúng
ta." [1, 50].
Về mặc, tác giả có sự so sánh khá lý
thú khi mô tả y phục của nữ là áo "mớ ba mớ bảy" [hiểu
là áo tứ thân - ĐKT] với các chất liệu tơ lụa, voan nhưng
giản dị hơn Ấn Độ và không để lộ phần nào của cơ
thể; trang phục nam có sự dung hợp với người Chăm, thể
hiện qua việc quàng một tấm vải bên ngoài cùng năm sáu
lớp áo bằng lụa ở trong; riêng các văn nhân tiến sĩ thì
vận áo the đen, mũ cánh chuồn, tay cầm quạt. [3]
Thời chúa Nguyễn
Phúc Chu, năm Ất hợi (1695), tức hơn 70 năm sau Christophoro
Borri đến Đàng Trong, Hòa thượng Thích Đại Sán từ Trung
Hoa được mời sang Đại Việt. Trong tập bút ký
Hải ngoại
kỷ sự, ông ghi chép các tập tục của xứ Quảng Nam một
cách tỉ mỉ. Trước hết về lòng hiếu khách/mộ đạo của
người Việt, ông cho biết khi đến Đàng Trong, nơi ở chật
hẹp không được khoan khoái, Quốc chúa hứa sẽ cất cho phương
trượng mới. Ông thầm nghĩ chắc chừng một vài tháng sau
mới được an cư. Nhưng với truyền thống văn hóa trọng
thị Phật giáo của người Việt đã làm ông hoàn toàn bất
ngờ, như đã ghi trong tập kỷ sự của mình: "Qua ngày sau,
chừng canh ba, nghe ngoài cửa có tiếng ồn ào, thì ra một
viên Nội giám, hai viên Bộ Công, dẫn đến vừa lính vừa
thợ chừng nghìn người để xây dựng nhà cửa. Mờ sáng,
kẻ vác tre, người vác gỗ, kẻ đánh tranh, người vót mây,
lại có người cuốc đất đắp nền, hoặc leo lên mái nhà
gọi nhau, hoặc đào hầm đất đi xuống. Từ sáng đến tối,
liền ba ngày đêm, cất xong một tòa phương trượng năm gian
ba mươi hai cột, bốn phía có hành lang; vách tường, rầm
thượng, rầm hạ đều bằng ván; và một nhà hậu liêu năm
gian, hai mươi cột, cũng đ?ng thời làm xong." [2, 42 - 43].
Cùng với đó là sự thết đãi hậu hỉ gồm cơm chay,
nhiều món không biết tên, quá nửa dùng mật mía trộn đồ
ăn nguội, yến sào, giấm tương dầu muối vừng sáp, rau quả
...[4]
Những tập tục tốt đẹp nêu trên
đã tác động sâu sắc đối với đại sư Trung Quốc ở vùng
đất "Hải ngoại".
Sau Thích Đại Sán
gần 100 năm, John Barrow đã đến Đà Nẵng (tác giả gọi là
xứ Nam Hà) trong những năm 1792 - 1793 và ghi lại những điều
tai nghe mắt thấy về phong tục tập quán của vùng này qua
tác phẩm Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà 1792 - 1793.
Một điều thu hút sự chú ý của Barrow là hát kịch. Theo
ông, môn nghệ thuật này của Nam Hà không giống của Trung
Hoa mà lại rất gần với xứ Scotland hoặc Ấn Độ. "Cảnh
đối thoại trong đoạn diễn này hoàn toàn khác lối ngâm,
vịnh rầu rĩ và gần như đơn điệu của người Trung Hoa,
nhẹ nhàng và hài hước, đôi lúc lại xen vào các làn điệu
vui tươi, thường được kết thúc bằng bằng một bản đồng
ca chung. Những làn điệu đó mới nghe như thô kệch và không
trao chuốt, lại tỏ ra đã được phối hợp rất đều và
được hát hoàn toàn đúng nhịp điệu. Một khúc nhạc đặc
biệt đã thu hút được sự chú ý của chúng tôi, âm điệu
chậm chạp u sầu, rất giống với những làn điệu ủy mị
não nùng, đặc trưng cho người dân Scotland [...] đoạn ca vũ
giải trí này là sáng tạo của riêng người Nam Hà hoặc du
nhập từ phía Tây của Ấn Độ..." [3, 67 - 68]. Cùng với nhạc
kịch, người dân Nam Hà thời bấy giờ còn chơi đá bóng,
nhảy sào, chọi gà, chọi chim, đá châu chấu (dế?), chơi
bài, đá cầu, tỉ võ, ảo thuật, [5]
...
Một
cảnh trong vở nhạc kịch của người Nam Hà
(Nguồn:
John Barrow (2011), Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792
- 1793),
Nxb
Thế giới)
Cách nay hơn 100
năm, tức khoảng đầu thế kỷ XX, một nữ công dân Anh theo
chồng sang công tác tại Viện Pasteur Nha Trang, bà Gabrielle-Maud
Candler Vassal đã mô tả phong tục người An Nam qua tác phẩm
Mes
Trois Ans d'Annam (Ba năm ở An Nam). Trong đó, ngày tết được
bà dành hẳn ghi chép ở chương VIII. Về ngày tết trong đời
sống tinh thần của người Việt bà viết rất đúng: "Trong
lịch, Tết là ngày lễ lớn nhất [...] Người An Nam, ai cũng
vui Tết, giàu nghèo đều nghỉ tay đặng thưởng Xuân." [4,
113]. Để chuẩn bị tết, người bản xứ tiến hành những
công việc theo bà mang màu sắc tôn giáo, thực ra là truyền
thống văn hóa dân tộc thì đúng hơn. Gồm tảo mộ, quét
dọn trang hoàng nhà cửa, chuẩn bị tiền bạc, mua sắm vật
dụng. Trong những ngày tết ở Nha Trang lúc bấy giờ, đã
diễn ra nhiều trò chơi dân gian gắn liền với điều kiện
sống của cư dân như đua ghe câu, thi thuyền thúng, thi bơi
lội, đua ngựa, chạy việt dã, đua xe kéo, thi múa hát của
phụ nữ, xiếc thú (voi), múa rồng, bắn pháo hoa và hát bộ.
Tác giả rất tinh tế khi so sánh sự khen thưởng đối với
diễn viên xuất sắc của các quan chức Việt với người
Pháp và người Nhật như sau: "Khán giả không vỗ tay tán thưởng
như chúng ta [tức người Pháp - ĐKT]. Gần sân khấu diễn
có đặt một cái trống lớn. Ngày xưa muốn khen ngợi một
lời thơ văn đối đáp nghĩa lý hay một thế võ bí hiểm
của diễn viên, một người khán giả sẽ đứng lên, bước
tới bên cái trống lớn, đánh mạnh một loạt. Ngày nay, công
chúng không còn có thể đánh trống lớn (chầu) được nữa.
Một nhân vật có chức quyền trong cử tọa được giao thi
hành công việc này. Người này phải diễn đạt những cảm
xúc của khán giả, như thời cổ đại người xưa làm qua
dàn hợp xướng hay trong Koto của sân khấu Nhật Bổn..."[4,
121 - 123]. [6]Tương
tự như C. Borri, M.Vassal cho biết một trong những phong tục
truyền thống của người Việt là kính trọng người cao tuổi.
Bà viết: "Ngoài đường cũng như trong nhà người ta bày tỏ
lòng tôn kính rất mực đối với người già. Người nghèo
nhất, khi đã luống tuổi, cũng được mọi người kính nể
ngang bằng một ông quan." [4, 128].Một điểm đặc biệttrong
Ba năm ở An Nam là tác giả đã ghi nhận đạo lý của
những người Việt trong gia đình và gia tộc: "Lòng yêu thương
cha mẹ dành cho con cái là hệ luận của đạo thờ cúng tổ
tiên. Người An Nam là những bậc cha mẹ tận tụy. Nếu họ
ít khinh dè chuyện giữ gìn vệ sinh hơn, ta có thể chọn họ
làm những gương tốt cho mọi người noi theo. Về phía con
cái, họ biểu lộ lòng thương cha thương mẹ vô cùng lớn
lao, kể cả sau khi cha mẹ đã qua đời. Người ta cẩn thận
giáo huấn con cái, dạy bảo những chuyện lễ tục phải theo..."
[4, 128]. Về giỗ chạp, M.Vassal tường thuật khá chi tiết:
"Của lễ đặt trên bàn thờ tổ tiên rất là quan trọng.
Trong những gia đình giàu có, người ta bày đồ lễ mới mỗi
buổi sáng. Vào ngày chính lễ, gia chủ ăn vận áo quần đẹp
hơn mọi ngày, thắp đèn trên bàn thờ và trước bàn vị
tổ tiên rồi làm lễ bái. Ông ta rót ba ly rượu gạo đặt
lên bàn thờ, miệng lâm râm khấn mấy câu lễ: "Con kính cẩn
mời cụ kỵ, ông bà nội, các cô, các bác, các chú về đây
với chúng con, những đứa con cháu, hưởng lễ cúng chúng
con xin dâng lên đây với tấc lòng khiêm cung của chúng con."
Ông ta quì xuống lạy và trong một giây phút ông cùng những
người khác trong gia đình tĩnh tâm, tin rằng tổ tiên đang
về hưởng cỗ bày trên bàn thờ. Rượu được châm thêm
vào chung nhỏ, câu kinh cầu được đọc mấy lần nữa, rồi
lại quì lạy. Tóm lại, đây là một nghi lễ không thiếu
một nghi thức nào." [4, 128]
Nghiên cứu về
các phong tục của người Việt không thể không kể đến
Leopold Cadiere. Năm 1942, ông đến Việt Nam v?i tư cách Thừa
sai truyền giáo. Ngoài công tác mục vụ, Cadiere còn bỏ nhiều
công sức nghiên cứu phong tục tập quán, lịch sử, nghệ
thuật của người bản xứ. Bộ sách Văn hóa, tín ngưỡng
và thực hành tôn giáo người Việt của ông là một chuyên
khảo có giá trị cao về mặt khoa học, phản ánh các vấn
đề đời sống vật chất và tinh thần của người Việt.
Riêng về ngày tết, ông đã khảo cứu và viết lại một
cách chi tiết các phong tục trong mục Ngày đầu năm.
Trước hết về bổn phận và nghĩa vụ: "Ngày đầu năm, hay
ngày Tết, và hai ngày kế tiếp là những ngày lễ đối với
người Việt Nam. Đối với họ, đó là những ngày vui chung
hay riêng tư, đồng thời cũng là dịp để họ hoàn thành
bổn phận tôn giáo lúc nào cũng được tuân giữ. Đây
là ngày lễ trọng đại để thờ kính ông bà tổ tiên." [5,
297]. So với những tác giả đã nêu ở trên, Cadiere trình bày
các lễ cúng ngày tết Việt tường tận hơn. Đầu tiên là
những đồ lễ dâng cúng tổ tiên hương đăng trà quả, giấy
tiền vàng bạc. Tiếp đến là lễ rước ông bà vào tối
ba mươi tết. Theo đó, "các món ăn được trân trọng dọn
trên bàn ở gian dành cho ông bà, rồi thắp hương rót rượu,
cơm nóng hơi còn bốc nghi ngút. Gia trưởng mời vong linh tổ
tiên ông bà về tham dự bữa cơm được chuẩn bị tươm tất
cho người chết. Kẻ sống, rạp xuống đất lạy ba lạy hay
sáu lạy rồi đến lượt các thành viên trong gia đình lần
lượt vái lạy. Cửa nhà được đóng lại, mọi người quây
quần, người chết, kẻ sống đều đoàn tụ dùng bữa." [5,
298]. Việc dựng cây nêu, theo tác giả, phần đông người
Việt chẳng hiểu ý nghĩa, thấy ông bà làm thế nào thì họ
cũng làm như thế, rồi sau này đến lượt con cháu hoặc để
ông bà nhận ra được nhà của con cháu mà về. Tập tục
kiêng cử ngày tết được tác giả gọi là may xưa,
theo quan niệm: "Những ngày đầu năm sẽ có ảnh hưởng tốt
xấu đến toàn năm. Ngày đầu năm mà ăn khổ thì sợ rằng
cả năm sẽ thiếu ăn, thế cho nên nhà giàu thì đầy no sung
túc thịt cá ba ngày Tết, nhà nghèo thì lo vay mượn để chuẩn
bị chu đáo;...Mọi chuyện đều gắn liền với may xưa
cả." [5, 300 - 301]. Một chi tiết trong chuyên khảo của Cadiere
rất đáng chú ý là nghi thức "sập cửa", tác giả viết:
"người ta cẩn thận sập cửa lại, đóng suốt ba ngày Tết,
cửa ra sân cũng đóng, chỉ mở cửa cho bạn bè quen biết,
những khách thăm viếng vị vọng, áo quần tươm tất [...]
Nghi thức sập cửa này có lẽ cũng liên quan đến việc
thờ kính ông bà. Người ta sập cửa ngay khi ông bà về, nghĩa
là không dám tiếp thêm những người bất xứng đối với
các vị khách quí vừa về." [5, 301]. Ngày đầu năm, tác giả
cho biết thêm, người Việt có tục cúng tổ nghề: Thần chuồng
trâu (từ mồng Một đến mồng Ba t?t), thợ rèn (mồng Sáu
tết), thần quản canh làm gạch, thợ săn, thành hoàng làng,
thợ hồ/nề, thợ mộc, tiểu thương, ông bồ, ông bình vôi,
...[7]
Dựng
nêu ăn tết
(Nguồn:
Internet)
Từ những ghi chép
của các tác giả nước ngoài về tết và một số phong tục
tập quán của người Việt hơn 200 năm trước cho thấy nhiều
vấn đề mang đậm tính văn hóa dân tộc, có giá trị lịch
sử cao và qua đó thể hiện nét ứng xử hướng ngoại và
hướng nội của người Việt về văn hóa. Tuy nhiên, nghiên
cứu phong tục một dân tộc là vấn đề không đơn giản,
tìm hiểu tập quán của người nước ngoài lại càng khó
hơn, đòi hỏi phải có vốn kiến thức chuyên sâu, am tường
từng lĩnh vực. Barrow đã rất đúng khi thể hiện quan điểm:
"Nói cho chính xác cả về phong tục và quan điểm của các
dân tộc ngoại quốc, vạch ra những động cơ hành động
của họ và những cơ sở cho thành kiến của họ, xem xét
những hệ quả của các thiết chế dân sự và tôn giáo tác
động với tính tình và tâm thức của dân chúng, điều tra
những tư tưởng, đạo đức của họ cái nào đúng cái nào
sai, những quan niệm của họ về thị hiếu, thẩm mỹ hoặc
hạnh phúc và nhiều chủ đề khác cần khảo sát trước khi
có được sự hiểu biết đầy đủ về bản chất tính cách
và hoàn cảnh thực tế của họ, không chỉ đòi hỏi phải
cư trú lâu dài tại nước đó, mà còn phải quen biết thân
thuộc với mọi giai cấp khác nhau trong xã hội; và sau tất
cả mọi thứ đó, họa chăng mới vẽ được một bức chân
dung xác thực." [3, 70 - 71]
Về tính hướng
ngoại, ở người Việt thể hiện qua sự hiếu khách.
Điều này được Hòa thượng Thích Đại Sán ghi chép trong
tập hải trình của mình như trên đã dẫn và cũng thấy ở
tường trình của C. Borri khi ông cho biết quan trấn thủ Quy
Nhơn đã huy động trên một nghìn người trong nội nhật một
ngày đã dựng xong ngôi nhà thờ rất lớn và rất cao. [8]Tính
hiếu khách này cũng là nhân để dẫn đến ứng xử
văn hóa mở của người Việt là quả, qua phản
ánh của Borri, "họ rất xã giao, lịch sự và thân mật" khi
tiếp xúc với người phương Tây như ở trên đã đề cập.
Về tính hướng
nội được thể hiện qua các tập tục kính trọng ông
bà tổ tiên, kính nhường người nhiều tuổi, lòng yêu thương
con cái và hiếu kính của con cái đối với cha mẹ cùng
những tập tục trong ngày tết cổ truyền. Đầu tiên,
đối với tiền nhân, người Việt từng nhắc nhớ con cháu
"Con người có tổ có tông. Như cây có cội như sông có nguồn".
Kính trọng ông bà tổ tiên,đạo lý ngàn đời ấy đã
được
Vassal và Cadiere phản ánh rất đúng trong các ghi chép
của họ ở trên.
Tiếp đến là "kính
lão đắc thọ". Phép ứng xử trên mục đích không phải "đắc
thọ" mà cốt yếu là thể hiện đạo lý làm người đối
với bậc trưởng thượng. Người trẻ cống hiến nhiệt tâm,
người già ban tặng kinh nghiệm. Điều này là sự nối tiếp
lịch sử qua tập tục của người Việt xưa. Hội nghị Diên
Hồng năm 1284 là các minh chứng tuyệt vời về một phong tục
tốt đẹp của người Việt mà quốc sử còn lưu.
Cùng với phép "đối
nhân" trên, thuật "xử thế" của người Việt được thể
hiện qua tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái và ngược
lại. Là tảo mộ, trang hoàng nhà cửa, mua sắm vật dụng,
cùng quây quần bên mâm cơm tất niên, đón gia thừa, cúng
mồng Một, xông đất đầu năm, cúng tổ nghề, chơi tết
với nhiều trò vui dân gian và tục may xưa. Ở đây có
chi tiết hơi lạ so với ngày nay, đó là tục sập cửa
ngày tết mà Cadiere viết như trên. Thông thường ngày đầu
năm, người Việt luôn mở rộng cửa để đón chúa Xuân và
khách vào nhà. Nhiều người còn treo câu đối tết với ước
vọng (may xưa): "Môn đa khách đáo thiên tài đáo. Gia
hữu nhân lai vạn vật lai" (Cửa nhiều khách đến nhiều tiền
đến. Nhà có người vào lắm vật vào). Người Việt có tục
xông đất đầu năm nhưng không nhà nào "sập cửa lại, đóng
suốt ba ngày Tết" như tác giả đã viết.
Trong đời thường
cũng như những ngày tết, theo ghi nhận của các tác giả trên,
người Việt có các tật xấu là hay xin xỏ, uống
rượu và đánh bạc. Người Việt rất nhân từ và
rộng rãi trong việc cứu đói nhưng kèm theo đó là tật xấu
như ông đã viết: "Nếu người Đàng Trong nhanh nhảu và rộng
rãi hay cho, thì mặt khác họ lại hay xin những gì họ thấy.
Thế nên khi họ vừa đưa mắt nhìn thấy những vật họ cho
là hiếm và lạ là họ đem lòng thèm muốn và nói ngay xin
một cái, có nghĩa là cho tôi xin cái đó." [1, 52]. Về tật
thích uống rượu, Borri cho biết ở Đàng Trong: "Có rất nhiều
rượu đến nỗi mọi người đều uống rất thông thường
tùy sở thích ..." [1, 63]. Qua quan sát của Barrow thì người
Nam Hà: "Họ không ham thích những loại bia hoặc rượu vang
của chúng tôi, nhưng họ lại rất mê loại rượu rum nguyên
chất, rượu brandy hay bất kỳ một loại đồ uống nào có
cồn, đến mức sau lần thăm viếng đầu tiên của họ, người
ta thấy rằng không nên để họ tùy ý uống quá nhiều, vì
cả đoàn người khi đó đã ra khỏi con tàu trong tình trạng
say xỉn ..." [3, 60]. Về đánh bạc, Vassal đã phê phán: "Bài
bạc là một trong những tật xấu của người An Nam. Họ không
say sưa, không chửi bới nhau, tính tình ôn hòa nhưng bài bạc
thì không ai ngăn cản nổi họ. Chính vì thế mà bao nhiêu
người thợ thủ công khéo tay và thông minh cứ vẫn nghèo
cực, ăn bữa nay lo bữa mai. Ngày tết, người đứng đắn
nhất cũng ham cờ bạc." [4, 114]. Tệ nạn này người Việt
đúc kết bằng câu nói: "Cờ bạc là bác thằng bần".
Những tật xấu
của người Việt như các tác giả trên đã nêu sẽ có ý
kiến cho rằng đó không phải là số đông, tức không đại
diện cho nét chung của người Việt. Nhưng lăng kính mà các
tác giả trên phản ánh ít nhiều cung cấp một góc nhìn khác
về những mặt tích cực và còn hạn chế trong văn hóa Việt.
Người Việt uống 3 tỷ lít bia/năm, đàn ông Việt uống rượu
bia gấp 4 lần bình quân của thế giới [9]như
báo chí đưa tin phải chăng là hệ quả của thói xấu nêu
trên, và như vậy các ghi chép của những tác giả nước ngoài
đã thể hiện giá trị, ít nhất về mặt cảnh báo xã hội.
Ngày tết, đọc
lại sách xưa để hiểu thêm về các phong tục tập quán,
qua đó bảo tồn tinh hoa văn hóa Việt và ứng xử phù hợp
trong cuộc sống hiện đại là điều không thừa. Truyền thống
văn hóa Việt bắt đầu từ như vậy.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1- Christophoro Borri
(2014), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí
Minh.
2- Thích Đại Sán
(1963), Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế - Ủy
ban phiên dịch sử liệu Việt Nam.
3- John Barrow (2011),
Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792 - 1793), Nxb Thế
giới.
4- Gabrielle M. Vassal
(2015), Ba năm ở An Nam, Nxb Hội nhà văn.
5- Leopold Cadiere
(2015), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người
Việt,
Tập 2, Nxb Thuận Hóa.
Chú thích
[1]
- Về thời gian tác giả đến Đàng Trong, trong Lời giới thiệu
viết: "Vào Dòng Tên năm 1601, ông qua Ấn năm 1615 và tới Đàng
Trong, cải trang làm bồi tàu năm 1618. Ông ở đó cho tới năm
1622 thì về Ma Cao." Xem: Christophoro Borri (2014),
Xứ Đàng
Trong năm 1621, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tr.
10.
[2]
- Xem: Christophoro Borri (2014), Sđd, tr. 62 – 63.
[3]
- Xem: Christophoro Borri (2014), Sđd, các tr. 54, 56, 57.
[4]
- Xem: Thích Đại Sán (1963), Sđd , tr 35.
[5]
- Xem: John Barrow (2011), Sđd, tr 69 – 70.
[6]
- Koto là nhạc cụ đàn dây truyền thống của Nhật Bản.
Đàn đựơc làm bằng gỗ, chiều dài khoảng 180cm, chiều rộng
khoảng 30cm, gẩy đàn bằng móng tay của ngón giữa, ngón trỏ
và ngón cái. 13 dây được gọi là "JI", kéo căng trên cầu
ngựa (miếng gỗ di động trên đó căng dây đàn), vị trí
của “JI” quyết định độ cao của âm điệu. Thời Edo
(1603-1867), biểu diễn đàn Koto được coi là sở thích của
nữ giới, rất nhiều con gái của những nhà khá giả được
học đàn từ hồi nhỏ. Ngay cả bây giờ, nữ giới cũng
rất yêu thích đàn Koto. Theo: INAS, Trung tâm Nghiên cứu Nhật
Bản, Giới thiệu về một số bộ môn nghệ thuật Nhật
Bản. Xem: http://cjs.inas.gov.vn/index.php?newsid=619,
truy cập 5-12-2015
[7]
- Xem: Leopold Cadiere (2015), Sđd, tr 301 – 303.
[8]
- Xem: Christophoro Borri (2014), Sđd, tr. 102 – 103.
[9]
- Theo báo Giao thông http://www.baogiaothong.vn/
nguoi-viet-uong-3-ty-lit-bia-68-trieu-lit-ruou-moi-nam-d124464.html
và báo VN Express http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/
dan-ong-viet-uong-ruou-bia-gap-4-lan-binh-quan-cua-the-gioi-3176687.html,
truy cập 29-11-2015.