Tiến
trình mở đất của các Chúa Nguyễn ở Nam bộ gắn liền
với nhiều vấn đề lịch sử: Tổ chức di dân khẩn hoang,
đào kinh mở đất, xây đồn đắp lũy phòng thủ đất nước;
hôn nhân chính trị; trợ giúp quân sự. Trong đó có các cuộc
chống xâm lấn từ Xiêm La mà nổi bật với nhiều nhân vật
lịch sử như: Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại, Tả quân
Lê Văn Duyệt, Thượng tướng quận công Trần Văn Năng (Trần
Ngọc) và một nhân vật đã ghi dấu ấn không nhỏ đó là
Hữu quân phó tiết chế, cai cơ Nguyễn Cửu Đàm.
1. Vài nét về
thân thế Nguyễn Cửu Đàm
Nguyễn Cửu Đàm
là con thứ của Chánh thống suất, cai cơ Nguyễn Cửu Vân,
cháu Nguyễn Cửu Dực. Cửu Vân có công rất lớn đối với
Chúa Nguyễn trong việc hỗ trợ Chân Lạp chống sự can thiệp
của Xiêm La. Quốc sử cho biết, mùa thu năm Ất Dậu (1705),
vua Chân Lạp - Nặc Nộn mất, Nặc Yêm lên thay. Con của Nặc
Thu là Nặc Thâm nhờ Xiêm giúp, đem quân đánh Nặc Yêm. Yêm
sợ, chạy sang Gia Định cầu cứu với Chúa Nguyễn Phúc Chu.
Chúa sai Cửu Vân thống lĩnh quân thủy bộ Gia Định tiến
đánh Nặc Thâm. Đến Sầm Giang gặp viện binh Xiêm, quân ta
đánh tan. Cửu Vân đưa Nặc Yêm về thành La Bích. Ngoài công
dẹp yên cuộc xâm lấn của Xiêm La ổn định Chân Lạp, Nguyễn
Cửu Vân còn được biết đến với vai trò là người tổ
chức khai khẩn ruộng đất hoang ở Vũng Gù, đắp lũy từ
Quán Cai đến chợ Lương Phú và đào thông đầu nguồn hai
sông Cầu Úc - Mỹ Tho giúp việc giao thương thuận lợi [1]
Nguyễn Cửu Đàm
có người anh trưởng là Nguyễn Cửu Chiêm, làm đến Phó
tướng. Năm Tân Hợi (1731), giặc Lào xâm lấn, Cửu Chiêm
được cử làm Giám quân đánh tan quân giặc ở Lật Giang
(sông Bến Lức - Long An nay). Sau được thăng Thống lĩnh quân
doanh Trấn Biên.
Xuất thân trong
gia đình có truyền thống như thế nên Nguyễn Cửu Đàm đã
kế thừa các công lao và sự nghiệp của cha anh, do đó tên
ông được các sử quan triều Nguyễn không ít lần nhắc đến.
Tuy nhiên, hiện chưa có tài liệu nào cho biết năm sinh của
ông. Đại Nam liệt truyện chép: "Là con thứ của Cửu
Vân. Đàm làm quan đến Hữu quân Phó Tiết chế, cai cơ." [2]
Các tác giả Tự điển nhân vật lịch sử Việt Nam
cũng không ghi năm sinh của ông, chỉ ghi về ông như sau: "Danh
tướng, nhà doanh điền thời chúa Thượng. Xuất thân là võ
tướng con trai của Chánh thống cai cơ Nguyễn Cửu Vân, làm
quan tướng đến chức Hữu quân phó tiết chế, cai cơ thời
Thượng vương." [3] Cùng
với khuyết năm sinh, nơi sinh của ông cũng không có tài liệu
nào đề cập . Có ý kiến cho rằng ông sinh ở Gia Định.[4]
2. Sự nghiệp
của Nguyễn Cửu Đàm
Để tìm hiểu về
sự nghiệp của ông, cần phải xem bối cảnh các nước trong
khu vực lúc bấy giờ. Năm 1767, thời Chúa Nguyễn Phúc Thuần,
Ayuthaya bị Miến Điện xâm lấn, sau đó bắt cả vua. Năm
sau (1768), một người Xiêm gốc Hoa tên là Trịnh Quốc Anh
tự khởi binh rồi lên ngôi vua, lập Vương quốc Xiêm, dời
kinh đô về Băng Cốc.
Vua Chân Lạp là Nặc Tôn, lấy lý do
Quốc Anh không thuộc dân tộc Xiêm La, nên không chịu cống
nạp nữa. Quốc Anh cho quân sang Chân Lạp đặt Nặc Nộn thay
Nặc Tôn và chiếm đóng Nam Vang. Đồng thời, Trịnh Quốc
Anh biết con vua Xiêm La cũ là Chiêu Thùy còn ở Hà Tiên, sợ
ngày sau sinh ra biến loạn, tháng 10 năm 1771 Quốc Anh đem binh
thuyền sang vây đánh Hà Tiên. Sử triều Nguyễn chép về việc
này như sau:
"Mậu tý, năm thứ
3 [1768] ... Trưởng đất Mường Tát nước Xiêm La là Trịnh
Quốc Anh tự lập làm vua. Quốc Anh là người Triều Châu nước
Thanh. Cha là Yển Lưu ngụ ở Xiêm La, làm trưởng đất Mường
Tát, Yển chết, Quốc Anh nối chức, xưng là Phi Nhã Tân (tên
quan nước Xiêm), thời lúc nước Xiêm trống trải suy yếu,
bèn dấy quân đánh úp lấy đất, tự xưng làm quốc vương,
đòi nước Chân Lạp phải tiến cống. Vua Chân Lạp là Nặc
Tôn cho rằng Phi Nhã Tân không phải dòng dõi Xiêm La, cự không
nhận." [5] và "Tân mão, năm
thứ 6 [1771] ... Mùa đông, tháng 10, vua Xiêm thấy Chiêu Thùy
chạy sang Hà Tiên, sợ có mối lo về sau, bèn phái hai vạn
quân thủy và bộ, dùng tên giặc [núi] Bạch Mã là Trần Thái
làm hướng đạo, vây đánh Hà Tiên." [6]
Khi Trịnh Quốc
Anh đánh Hà Tiên, Trấn thủ Hà Tiên Mạc Thiên Tứ vừa tổ
chức cho quân chống trả vừa cho người cấp báo về dinh
Long Hồ. Tuy nhiên do lực lượng quân Xiêm quá mạnh, quân
trấn ít ỏi, lại thêm kho thuốc súng của Mạc Thiên Tứ
bị cháy nên thành Hà Tiên thất thủ. Mạc Thiên Tứ và các
bộ tướng rút về Trấn Giang (nay là Cần Thơ). Sau đó các
đạo Châu Đốc, Đông Khẩu và dinh Long Hồ đem binh thuyền
đến tiếp ứng, quân Xiêm bị đẩy lùi. Trịnh Quốc Anh giao
cho Chiêu khoa Trần Liên ở lại giữ Hà Tiên, còn bản thân
phải chạy về Chân Lạp. Khi đó, vua Chân Lạp là Nặc Tôn
bỏ chạy, Quốc Anh đưa Nặc Nộn lên ngôi . [7]
Cũng cần nói thêm,
khi quân Xiêm sang đánh Hà Tiên, Điều khiển Gia Định lúc
đó là Nguyễn Cửu Khôi không điều quân hỗ trợ nên sau
khi thành Hà Tiên bị chiếm, ông bị Chúa Nguyễn giáng chức,
đồng thời cử Nguyễn Cửu Đàm tổ chức tiến đánh quân
Xiêm. Sử triều Nguyễn cho biết: "Nhâm thìn, năm thứ 7 [1772],...
Tháng 2, chúa cho rằng Điều khiển Gia Định giữ quân không
đến cứu viện nên thành Hà Tiên bị hãm, bèn giáng Nguyễn
Cửu Khôi làm Cai đội và triệu Nguyễn Thừa Mân về.
Sai Chưởng cơ Nguyễn
Cửu Đàm (con Nguyễn Cửu Vân) làm Khâm sai chánh thông suất
đốc chiến, Cai bạ dinh Quảng Nam là Trần Phúc Thành làm
Khâm sai tham tán, lĩnh 10.000 quân thủy và bộ thuộc hai dinh
Bình Khang và Bình Thuận và 20 chiến thuyền để hành việc
điều khiển.
Mùa hạ, tháng 6,
Nguyễn Cửu Đàm tiến quân theo đường Tiền Giang, cùng với
Cai bạ dinh Long Hồ là Nguyễn Khoa Thuyên lĩnh quan quân đạo
Đông Khẩu tiến theo đường Kiên Giang; Lưu thủ Tống Phước
Hiệp theo đường Hậu Giang tiến đóng giữ Châu Đốc để
tiếp ứng cho cho hai cánh quân trên. Bấy giờ Cai đội đạo
Đông Khẩu là Nguyễn Hữu Nhân ốm, một mình Khoa Thuyên đem
3.000 quân và 50 thuyền, đánh nhau với quân Xiêm không được,
lui về đầm Kiên Giang, rồi dùng người Chân Lạp là Nhẫm
Lạch (chức quan) Tối (tên người) làm tiên phong, tiến đến
Nam Vang, La Bích. Nặc Tôn trở về nước. Chân Lạp được
dẹp yên. Đàm thu quân về dinh ..." [8]
Đại Nam nhất
thống chí xác nhận điều này: "Năm Nhâm Thìn đời Duệ
Tôn (1772), người Xiêm La xâm lấn Hà Tiên, Nam Vang. Ông làm
Chánh thống suất, từ Tiền Giang, tiến đánh quân Xiêm ở
Nam Vang, cả phá được, người Xiêm xin hòa, Chân Lạp lại
được yên ổn." [9]
Đại Nam liệt
truyện cũng chép: "Duệ Tông Hoàng Đế năm thứ 7, Nhâm
Thìn (1772) mùa xuân, quân Xiêm xâm lấn Hà Tiên, Nam Vang. Thư
ngoài biên giới báo cấp, chúa cho Đàm làm Khâm sai Chánh thống
suất Đốc chiến, cùng Tham tướng Trần Phúc Thành lĩnh một
vạn quân thủy bộ hai doanh Bình Khang, Bình Thuận, và 30 chiếc
thuyền vào giữ quyền điều khiển Gia Định.
Mùa hạ năm ấy,
Đàm từ đường sông Tiền Giang tiến quân đánh phá tan quân
Xiêm ở Nam Vang. Quân Xiêm chạy sang Hà Tiên, rồi xin hòa.
Việc nước Chân Lạp lại được yên." [10]
Qua các sử liệu
trên cho thấy, tuy có khác nhau về số lượng thuyền khi đánh
quân Xiêm ở Chân Lạp nhưng đều thống nhất chi tiết Nguyễn
Cửu Đàm được phong Khâm sai Chánh thống suất chỉ huy quân
hai dinh/doanh Bình Khang và Bình Thuận tiến đánh quân Xiêm.
Đó là công lao đầu tiên của ông và chính nhờ đó mà ông
được Chúa Nguyễn thăng chức Điều khiển Gia Định như
Liệt truyện ở trên đã cho biết.
Khi xét một nhân
vật lịch sử, cần đặt trong bối cảnh xã hội đương thời,
có như thế mới phản ánh chân thật về những đóng góp
của nhân vật đối với đất nước và dân tộc. Về vấn
đề này, Giáo sư Phan Huy Lê đã chỉ rõ: "Đánh giá về một
nhân vật lịch sử, một con người, nói chung đã là một
vấn đề phức tạp và tinh tế, đòi hỏi các nhà khoa học
phải đặt nhân vật đó vào bối cảnh lịch sử cụ thể
với tất cả mối quan hệ phức tạp của hoàn cảnh gia đình,
văn hóa, xã hội, điều kiện hoạt động và nhất là yêu
cầu phát triển của đất nước trong xu thế chung của thời
đại và của khu vực, để phân tích và nhìn nhận một cách
khách quan, toàn diện và thỏa đáng về mặt công lao, cống
hiến, mặt tích cực cũng như mặt hạn chế và tiêu cực." [11]
Một sự kiện cũng
lưu dấu ấn của Nguyễn Cửu Đàm đó là việc ông chỉ huy
đắp lũy Tân Hoa. Khảo cứu các sử cũ cho thấy, sau khi dẹp
yên Chân Lạp, Nguyễn Cửu Đàm đem quân về Gia Định. Để
đề phòng sự tấn công trở lại của quân Xiêm, năm 1772,
ông đã cho đắp một lũy đất dài 15 dặm bao quanh thành,
sử nhà Nguyễn gọi là Lũy cổ Bản Bích và mô tả lũy này
như sau: "Lũy cổ Bản Bích: Ở địa giới hai huyện Bình Dương
và Tân Long, dài 866 trượng, hình dáng như nửa bức tường.
Lại có lũy đất dài 1.323 trượng, Đốc chiến Tiên triều
là Nguyễn Cửu Đàm đắp, nền cũ vẫn còn." [12]
Tên gọi Bản Bích là vì lũy có hình dáng như nửa bức tường.
Điều này cũng thấy ghi chép ở Đại Nam liệt truyện:
"Duệ Tông Hoàng Đế năm thứ 7, Nhâm Thìn (1772)...Đàm dẫn
quân về, đắp lũy Tân Hoa, dài 15 dặm, hình như bán nguyệt,
bao quanh doanh trại chặn ngang đường bộ để đề phòng bất
trắc." [13]
Đánh giá về công
lao thứ hai của ông, có tác giả đã nhận định như sau:
"Nguyễn Cửu Đàm vừa là một vị tướng tài vừa là một
nhà quy hoạch lớn, được lịch sử ghi nhận với việc xây
dựng lũy Tân Hoa (còn gọi là lũy Bán Bích) và cho khơi dòng
nối hai đầu rạch Bến Nghé và rạch Thị Nghè xuống đến
Cầu Bông tạo một vòng cung ba mặt sông, một mặt thành cùng
với những đồn bố phòng ở những nơi hiểm yếu bao quanh
làm cho Sài Gòn trở thành môt pháo đài bất khả xâm phạm
trước các cuộc tiến công của ngoại xâm." [14]
Cũng vì thế có ý kiến cho rằng Nguyễn Cửu Đàm là kiến
trúc sư đầu tiên của Sài Gòn: "Ông được lịch sử ghi
nhận là nhà quy hoạch Sài Gòn đầu tiên khi khép kín
thành phố bằng ba mặt sông và một mặt thành, tạo nên một
thể thống nhất về địa lý kinh tế, xã hội và bố phòng." [15]
Một ý kiến không kém phần lý thú khi cho biết với việc
xây lũy Bán Bích, Nguyễn Cửu Đàm đã đóng dấu xác nhận
sự ra đời của Sài Gòn: "Theo quan niệm của Pháp, của vua
Gia Long thì năm 1790 là khai sinh thành phố Sài Gòn (Ville
de Sai Gon), vì năm ấy là năm xây thành Bát Quái và lập
Gia
Định kinh. Nhưng theo các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam,
thì Sài Gòn đã là thành phố từ khi Nguyễn Cửu Đàm xây
lũy Bán Bích năm 1772, vì "khi ấy phố xá, thương cảng đã
được bảo vệ bởi một vách thành dài 15 dặm""[16]
Bán Bích cổ
lũy trên bản đồ Gia Định 1815 do Trần Văn Học vẽ.(Dưới
Tổng Dương Hòa Thượng)
(Nguồn:http://vi.wikipedia.org/)wiki/Nguy%E1%BB%85n_C%E1%BB%ADu_
%C4%90%C3%A0m#mediaviewer/File:B%E1%BA%A3n_%C4%91%E1%BB%93_
Gia_%C4%90%E1%BB%8Bnh_1815.jpgWikipedia)
Cùng với giúp Chúa
Nguyễn đập tan cuộc xâm lấn của quân Xiêm ở Hà Tiên,
ổn định tình hình Chân Lạp và đắp lũy Bán Bích để phòng
thủ Gia Định, qua đó góp phần đặt cơ sở cho việc quy
hoạch Sài Gòn thời bấy giờ, Nguyễn Cửu Đàm còn được
lịch sử ghi nhận là người đã chủ trương đào kênh Ruột
Ngựa. Việc này được Trịnh Hoài Đức cho biết như sau:
"Nguyên xưa từ cửa Rạch Cát qua phía bắc đến Lò Ngói có
một đường nước đọng trâu đi, ghe thuyền không đi lại
được. Mùa thu Nhâm Thìn (1772), Đốc chiến Đàm Ân hầu (con
thứ 5 của Chính thống Vân Trường hầu) sau khi đi dẹp Cao
Miên về, cho đào con kinh thẳng như ruột ngựa, nên mới đặt
tên ấy, nhưng nó hãy còn cạn hẹp, nên thuyền đi đến đây
phải tạm dừng để đợi nước lên mới đi tiếp qua được.
Đến nay đã đào thêm khá sâu rộng. Nhân dân đều cho là
rất tiện lợi." [17]
Sử triều Nguyễn
cũng xác nhận điều này: "Sông Ruột Ngựa (Mã Trường):
Ở phía Nam huyện Tân Long hai dặm. Nguyên xưa con đường từ
cửa sông Cát về phía Bắc, đến con đường Lò Ngói, nước
sông như vũng chân trâu, ghe thuyền đi không thông. Mùa thu
năm Mậu Thìn (1748) đời vua Duệ Tông bản triều, Đốc chiến
Nguyễn Cửu Đàm sau khi đánh Cao Man về, đào con kênh thẳng
như ruột ngựa, nên gọi tên như thế, nhưng đào còn hẹp
cạn, nên ghe đi đến đó phải tạm dừng đợi nước lên
mới qua, sau đào mở rộng thêm, qua lại tiện lợi." [18]
Bản đồ Sài
Gòn - Chợ Lớn năm 1962 có thể hiện Kinh Ruột Ngựa (tức
Rạch Mã Trường)
(Nguồn: Kinh
rạch và cầu xưa tại Tp HCM.
Xem:https://sites.google.com/site/giaothongsaigon/home/kinh-rach-va-cau-xua-tai-tp-hcm)
Qua hai nguồn sử
liệu trên, tuy có khác nhau về thời gian đào kênh [19]
nhưng đều thống nhất ở chi tiết Nguyễn Cửu Đàm là người
đã cho tiến hành đào kênh Mã Trường. Và từ khi sông/kênh
Ruột Ngựa được đưa vào sử dụng, trong bối cảnh ông
vừa cho đắp lũy Bán Bích để đề phòng bất trắc thì kênh
Ruột Ngựa cũng là một thủy lộ quan trọng góp phần trong
việc phòng thủ Gia Định. Mặt khác, sông/kênh này giúp cho
việc đi lại và lưu thông hàng hóa thuận tiện hơn, đồng
thời cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp trong
vùng. Như vậy, sự ra đời của kênh Ruột Ngựa đã cùng
lúc giải quyết được ba mục đích: quân sự, giao thông,
kinh tế và người đã tạo nên giá trị to lớn đó chính
là Nguyễn Cửu Đàm.
Lịch sử Việt
Nam những năm cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII là khoảng
thời gian đầy biến động với tình trạng phân liệt Đàng
Trong - Đàng Ngoài. Trong bối cảnh đó, cuộc khởi nghĩa Tây
Sơn bùng nổ ở Bình Định do ba anh em Nguyễn Nhạc Nguyễn
Huệ và Nguyễn Lữ lãnh đạo đã từng bước xóa bỏ sự
phân tranh Trịnh - Nguyễn và đặt cơ sở cho việc thống nhất
đất nước.
Trước sự phát
triển mạnh mẽ của phong trào Tây Sơn, các Chúa Nguyễn phải
rút dần vào Nam bộ. Sử cũ ghi nhận, năm 1775, Chúa Nguyễn
Phúc Thuần vào Nam, Nguyễn Cửu Đàm đem quân đón chúa và
được phong Ngoại tả: "Năm thứ 10, Ất Mùi (1775) mùa xuân,
Duệ Tông Hoàng Đế vào Nam, Đàm đem quân đón chúa, rồi
được thăng Ngoại tả."[20]
Đồng thời, Đại
Nam nhất thống chí cũng chép tương tự: "Năm Ất Mùi (1775),
Duệ Tôn vào Nam, ông được phong làm Ngoại tả." [21]
Và cũng năm 1775,
khi quân Tây Sơn tấn công vào Nam, Chúa Nguyễn Phúc Thuần
phải chạy về Ba Giồng. Nguyễn Cửu Đàm đem quân theo hộ
giá. Sau đó sử triều Nguyễn cho biết trong trận đánh ở
sông Ký (ở phía Đông Nam huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa),
ông cùng Nguyễn Cửu Tuấn tử trận. Để ghi nhớ công lao
của ông, năm 1810, vua Gia Long cho thờ ở miếu Công thần trung
tiết ở Huế. "... Trong trận đánh ở sông Kí, ông cùng Nguyễn
Cửu Tuấn đều chết trận. Năm Gia Long thứ chín (1810), được
thờ vào miếu Công thần trung tiết." [22]
Liệt truyện
cũng thống nhất điều này: " ... Lúc "giặc" Tây Sơn vào cướp,
chúa đi Ba Giồng (Tam Phụ). Đàm đem quân theo hầu chúa. Trong
chiến dịch Ký Giang, Đàm và Nguyễn Cửu Tuấn đều tử trận.
Đàm không có con. Gia Long năm thứ 9 (1810), được thờ vào
miếu Trung tiết công thần." [23]
Vấn đề đặt
ra là Nguyễn Cửu Đàm mất năm nào? Hiện nay có hai ý kiến
về vấn đề này. Nhóm tác giả Nguyễn Q Thắng - Nguyễn Bá
Thế cho rằng ông mất năm 1775: "Đến mùa xuân năm Ất mùi
(1775) ông chết trận, sau này được vua Gia Long liệt thờ
vào miếu Trung tiết công thần ở Huế." [24]
Tuy nhiên, như sử
cho biết, ông tử trận cùng Nguyễn Cửu Tuấn và Đại
Nam thực lục chép: "Đinh dậu, năm thứ 12 [1777] ... Tháng
3, giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ đem quân thủy bộ vào cướp.
Tân Chính vương lưu Lý Tài lại giữ Sài Gòn, rồi tự đem
quân tiến đánh ở Trấn Biên. Bộ binh giặc lẻn vào miền
thượng đạo, Phó tiết chế Nguyễn Cửu Tuấn, Chưởng Trường
đà Nguyễn Đại Lữ đều chết trận ..." [25]
Liệt truyện
cũng xác nhận: "Năm Đinh Dậu (1777) mùa xuân, "giặc" Tây Sơn
Nguyễn Văn Huệ vào cướp Gia Định, quân bộ ngầm vào miền
thượng. Tuấn theo Tân Chính vương chống giặc. Chúa bèn cho
Tuấn làm Nội tả Chưởng cơ Phó Tiết chế, đem quân đóng
ở sông Ký, cùng Tôn Thất Xuân đóng ở Hưng Phúc và Nguyễn
Đại Lã đóng ở núi Nữ Tăng để chống giặc. Thế giặc
rất mạnh. Quân lũ Tuấn đều mới mộ, không chống nổi,
giặc thừa thế, đánh dữ. Tuấn cùng Đại Lã đều tử trận.
Sau đó Tuấn được tặng Đô đốc phủ Chưởng phủ sự.
Gia Long năm thứ 3 (1804), cho thờ vào miếu Hiển trung công
thần ở Gia Định. Năm thứ 9 (1810), cho thờ ở miếu Trung
tiết công thần..." [26]
Qua các sử liệu
trên thì Nguyễn Cửu Đàm tử trận năm 1777 và nhân vật Nguyễn
Đại Lữ/Lã như thư tịch đã chép phải chăng chính là Nguyễn
Cửu Đàm (?). Tra cứu thêm ở Thực lục, năm Gia Long
thứ 9 (tức năm 1810) khi triều đình định thứ vị những
công thần khai quốc, công thần trung tiết và công thần trung
hưng không thấy có tên Nguyễn Đại Lữ/Lã mà 114 nhân vật
được công nhận Công thần trung tiết thấy có Đô đốc
phủ chưởng phủ sự quận công Nguyễn Cửu Tuấn và Đốc
chiến Nguyễn Cửu Đàm. [27]
Vậy phải chăng đây là tên gọi khác của Nguyễn Cửu Đàm
(?).
3. Thay lời kết
Nguyễn Cửu Đàm
là nhân vật lịch sử đã đóng góp trên nhiều lĩnh vực.
Trước hết ông là nhà quân sự có tài qua việc giúp Chúa
Nguyễn đập tan hành động xâm lấn của quân Xiêm, ổn định
tình hình Chân Lạp. Ông là nhà quy hoạch có tầm nhìn vượt
trội khi cho xây dựng lũy Bán Bích với ba mặt sông và một
mặt thành, cùng với những đồn bảo bố phòng ở những
nơi hiểm yếu thì Gia Định là vị trí tiền tiêu vững chắc
của Chúa Nguyễn trong buổi đầu mở đất ở Nam bộ, đủ
sức đối phó với các ý đồ dòm ngó từ Xiêm La và củng
cố thế lực để mưu sự lâu dài khi đối đầu với phong
trào Tây Sơn. Chính bằng việc đắp lũy Bán Bích mà Nguyễn
Cửu Đàm được xem là nhà quy hoạch đầu tiên ở Sài Gòn
Hiện nay, lũy Bán Bích là tên một con đường nối từ đường
Âu Cơ đến cầu Tân Hóa, thuộc quận Tân Phú, Thành phố
Hồ Chí Minh. Đường này vốn là hương lộ 14, có từ thời
Pháp thuộc, năm 1999 đổi thành tên trên. Ngoài lũy ấy, kênh
Ruột Ngựa (Mã Trường Giang) cũng do ông sai đào giúp cho thuyền
bè qua lại giữa Sài Gòn với miền Tây thêm thuận lợi. Những
công trình của Nguyễn Cửu Đàm đã đặt nền móng cho việc
xây dựng một thành phố Sài Gòn hiện đại sau này. [28]
Với những công
lao to lớn đó, Nguyễn Cửu Đàm xứng đáng được vinh danh
trong lịch sử. Lẽ thường là thế, bởi lịch sử luôn công
bằng với tất cả và hiện nay tên ông được đặt cho một
con đường tại quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên chỉ có như thế thì e rằng chưa xứng đáng với công
lao của ông. Nguyễn Cửu Đàm không chỉ có công chống Xiêm
La, giúp ổn định Chân Lạp, mà còn chỉ huy đắp lũy Bán
Bích, lại cho đào kênh Ruột Ngựa nhưng không có đền miếu
thờ riêng, lũy ông đắp, sông ông đào cũng không được
mang tên ông (!)
Nếu Chúa Tiên Nguyễn
Hoàng được xem là "anh hùng mở cõi vĩ đại", vì là
"người khởi đầu và đặt cơ sở cho toàn bộ sự nghiệp
mở cõi từ Thuận - Quảng về phía Nam" [29]
thì nên chăng tại trụ sở Sở Quy hoạch kiến trúc Thành
phố Hồ Chí Minh cần có tượng đồng Nguyễn Cửu Đàm để
xứng đáng với vị trí tiên phong về hoach định xây dựng
của ông. Hay ít nhất ở đầu kênh Mã Trường, đầu đường
Lũy Bán Bích, một bia đá tóm tắt công lao khai mở của ông.
Một trường học ở quận Tân Phú được mang tên ông. Chương
trình đúc tượng nhân vật lịch sử của Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam và Tạp chí Xưa & Nay có thể xem xét việc
đúc và dựng tượng cho ông. Những việc như thế thiết nghĩ
không phải không có cơ sở và cũng là điều hậu thế cần
làm như một sự tri ân đối với tiền nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc sử quán
triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb Giáo
Dục.
2. Quốc sử quán
triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống chí, Tập 1,
Nxb Lao Động.
3. Quốc sử quán
triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống chí, Tập 2,
Nxb Lao Động.
4. Quốc sử quán
triều Nguyễn (2013), Đại Nam liệt truyện, Tập
1, 2, Nxb Thuận Hóa.
5. Trịnh Hoài Đức(2006),
Gia Định thành thông chí, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
6. Nguyễn Q Thắng
- Nguyễn Bá Thế (2013), Từ điển nhân vật lịch sử Việt
Nam, Nxb Văn hóa Thông tin.
7. GS. Phan Huy Lê
- PGS. TS Đỗ Bang (Đồng chủ biên) (2014), Nguyễn Hoàng -
Người mở cõi, Nxb Chính trị quốc gia.
8. Nhiều tác giả
(2013), Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh
Giản, Nxb Hồng Đức - Tạp chí Xưa&Nay.
9.http://vi.wikipedia.org/wiki/
Nguy%E1%BB%85n_C%E1%BB%ADu_%C4%90%C3%A0m
Nguyễn Cửu Đàm
- Wikipedia
10. http://baoquangbinh.vn/dat-va-nguoi-quang-binh/201402/
dong-ho-nguyen-cuu-o-quang-ninh-voi-vung-dat-nam-bo-2113254/
, Phan Viết Dũng,
Dòng họ Nguyễn Cửu ở Quảng Ninh với vùng đất Nam Bộ.
11http://vi.wikipedia.org/wiki/
Nguy%E1%BB%85n_C%E1%BB%ADu_%C4%90%C3%A0m#mediaviewer/
File:B%E1%BA%A3n_%C4%91%E1%BB%93_Gia_
%C4%90%E1%BB%8Bnh_1815.jpgWikipedia
12 .https://sites.google.com/site/giaothongsaigon/home/kinh-rach-va
-cau-xua-tai-tp-hcm
CHÚ THÍCH
[1].
Xem Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục,
Tập 1, Nxb Giáo Dục, tr 118 và Quốc sử quán triều Nguyễn
(2013), Đại Nam liệt truyện, Tập 1 - 2, Nxb Thuận Hóa,
tr 94.
[2].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam liệt truyện,
Tập 1 - 2, Nxb Thuận Hóa, tr 95.
[3].
Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế (2013),
Từ điển nhân
vật lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, tr 702.
[4].
Về nơi sinh của ông, Wikipedia cung cấp thông tin sau: "Thân
thế và sự nghiệp Nguyễn Cửu Đàm, sử sách biên chép không
nhiều. Chỉ biết quê ông ở Gia Định và là con trai thứ
năm của Chánh thống cai cơ Nguyễn Cửu Vân". Xem: Nguyễn Cửu
Đàm-Wikipedia:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_C%E1%BB%ADu_
%C4%90%C3%A0m
[5].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục,
Tập 1, Nxb Giáo Dục, tr 172.
[6].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục,
Tập 1,. Sđd, tr 175.
[7].
Xem Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục,
Tập 1, Sđd, tr 175.
[8].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục,
Tập 1, Sđd, tr 176 - 177.
[9].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống
chí, Tập 1, Nxb Lao Động, tr 180 - 181.
[10].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam liệt truyện,Tập
1 - 2, Nxb Thuận Hóa, tr 95.
[11].
Phan Huy Lê (2013), Phan Thanh Giản (1796 - 1867) con người, sự
nghiệp và bi kịch cuối đời, trong: Nhiều tác giả (2013),
Thế
kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, Nxb
Hồng Đức-Tạp chí Xưa & Nay, tr 289 - 290.
[12].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống
chí, Tập 2, Nxb Lao động, tr. 1681.
[13]
Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam liệt truyện,Tập
1 - 2. Sđd, tr 95.
[14].
Xem http://baoquangbinh.vn/dat-va-nguoi-quang-binh/201402/
dong-ho-nguyen-cuu-o-quang-ninh-voi-vung-dat-nam-bo-2113254/
.
Phan Viết Dũng,
Dòng họ Nguyễn Cửu ở Quảng Ninh với vùng đất Nam Bộ.
[15].
Dẫn theo website Quận I, TP HCM. Xem: Nguyễn Cửu Đàm -
Wikipedia. Tlđd.
[16].
Xem: Nguyễn Cửu Đàm - Wikipedia. Tlđd.
[17].
Trịnh Hoài Đức (2006), Gia Định thành thông chí, Nxb
Tổng hợp Đồng Nai, tr. 45.
[18].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống
chí, Tập 2, Sđd, tr 1677 - 1678.
[19].
Về năm đào kênh Ruột Ngựa, Đại Nam nhất thống chí
ghi là năm Mậu Thìn (1748) chúng tôi cho rằng không đúng. Vì
Nguyễn Cửu Đàm được chúa Nguyễn cử đi đánh quân Xiêm
ở Chân Lạp năm 1772 (tức Nhâm Thìn), sau đó mới về Gia
Định và cho đào kênh. Điều này chính Đại Nam nhất thống
chí cũng thừa nhận (xem trích dẫn ở trên). Có lẽ các
sử quan triều Nguyễn đã chép nhầm năm xảy ra sự kiện
là Nhâm Thìn (1772) thành Mậu Thìn (1748).
[20].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam liệt truyện,Tập
1 - 2, Sđd, tr 95.
[21].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống
chí, Tập 1, Sđd, tr 180.
[22].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống
chí, Tập 1, Sđd, tr 180 - 181.
[23].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam liệt truyện,Tập
1- 2, Sđd, tr 95.
[24].
Nguyễn Q Thắng - Nguyễn Bá Thế (2013),
Từ điển nhân vật
lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, tr 703.
[25].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục,Tập
1, Sđd, tr 189.
[26].
Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam liệt truyện,Tập
1 - 2, Sđd, tr 98.
[27].
Xem Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục,
Tập 1, Sdd, tr 774 - 775.
[28].Xem:http://baoquangbinh.vn/dat-va-nguoi-quang-binh/201402/
dong-ho-nguyen-cuu-o-quang-ninh-voi-vung-dat-nam-bo-2113254/
, Phan Viết Dũng,
Dòng họ Nguyễn Cửu ở Quảng Ninh với vùng đất Nam Bộ.
[29].
GS. Phan Huy Lê - PGS. TS Đỗ Bang (Đồng chủ biên) (2014), Nguyễn
Hoàng - Người mở cõi, Nxb Chính trị quốc gia, tr 538.