Những lời dụ của vua Minh Mạng
về kinh Vĩnh Tế
Đỗ Kim Trường[1]
Đăng: Đồng Tháp Xưa & Nay, Tập 86, tháng 1 - 2025
Năm Kỷ Mão (1819), vua Gia Long sai Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại, Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên chỉ huy binh dân các trấn Vĩnh Thanh, Định Tường, đồn Uy Viễn, và Quốc vương Nặc Chăn cử Chiêu chùy Đồng Phù điều khiển binh dân Chân Lạp đào kinh từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Ngày 15 tháng Chạp khởi công, trước khi vua Gia Long băng hà bốn ngày.

1. Những lời dụ của vua Minh Mạng về kinh Vĩnh Tế

Sau khi lên nối ngôi, vua Minh Mạng đã tiếp tục cuộc đào kinh Vĩnh Tế, với sự quan tâm đặc biệt thông qua những lời dụ. Thực lục chép, năm Canh Thìn (1820), vua mới lên ngôi, thấy việc đào kinh, binh dân Chân Lạp phục dịch nhọc mệt khổ sở nên dụ cho thành thần Gia Định thường xuyên hỏi han. Người ốm thì cấp thuốc, người chết thì cấp tiền vải. Quan phiên theo làm việc tại công trường đều thưởng cho gươm đeo, súng tay và áo mặc. Đồng thời, Thánh tổ còn dụ cho Nặc Chăn, cùng các quan phiên rằng: "Tiên đế lấy việc đào sông làm lợi muôn đời cho các ngươi, vua tôi nhà ngươi nên cùng lòng hợp sức, sửa sang công việc, trước để xứng ý Tiên đế yên vỗ nước ngươi. Chớ tưởng rằng Triều đình muôn dặm, xét soi không tới. Cũng không thể đổ cho là phận sự của Đồng Phù (tên người quan Phiên) mà lòng nghĩ sai đi, sức làm lười biếng. Sau khi thành sông rồi, sẽ có trọng thưởng" [2]. Lời dụ nhắc đến Thế tổ Cao hoàng đế chủ trương lợi ích khi đào kinh này, không chỉ cho Việt Nam mà còn đối với Chân Lạp, qua phán truyền cho vua phiên: "Nước ngươi giáp giới với Vĩnh Thanh. Nay đào sông này không những lợi cho người Hán [tức người Việt, ĐKT] mà còn lợi cho nước ngươi vô cùng. Vương nên họp nhân dân bảo cho biết ý nhọc một lần mà nhàn mãi mãi, khiến dân vui làm việc, cho chóng thành công. Quan Phiên trở xuống, ai không theo lệnh cho Đồng Phù trị theo quân pháp" [3]. Sau 3 tháng khởi công, đến giữa tháng 3 năm Canh Thìn (1820), đào xong 3.224 trượng, còn 9.992 trượng chưa đào, vua cho hoãn lại và tạm thời khai dòng để thuyền nhỏ đi lại.

Năm Tân Tỵ (1821), tháng giêng, vua lại cho hoãn việc đào kinh, và dụ Tổng trấn Lê Văn Duyệt rằng: "Việc sông ấy năm ngoái có chỉ tạm đình để năm nay lại đào tiếp. Duy nghĩ sông chưa đào xong, đường nước cũng đã thông được thuyền bè, huống chi dịch lệ mới yên, chính là lúc phải để cho dân nghỉ ngơi, sao nên vội bắt dân vất vả? Khanh nên tuyên cáo ý ấy cho dân đều biết" [4]. Đoạn dẫn có 2 nội dung cần lưu ý. Một, "dịch bệnh mới yên" là sự kiện được Thực lục ghi: "Ở Hà Tiên, Vĩnh Thanh, Định Tường bệnh dịch phát to. Dụ cho sở tại làm lễ cầu đảo. Người bị bệnh không kể quan, quân hay dân đều cho thuốc men. Người chết, quân lính thì theo lệ cấp tiền tuất và cấp thêm một tấm vải; dân thì đàn ông đàn bà, người già người trẻ, mỗi người cấp 3 quan tiền. Người nào hài cốt bộc lộ thì nhà nước liệm táng cho. Lại sai trung sứ tuyên dụ cho quan địa phương phải thân đi cấp tiền tuất, hỏi thăm dịch khí nhẹ hay dữ, và số quân dân bị ốm chết, cứ ngày một lần tâu" [5]. Tình hình đó, nên vua cho tạm hoãn công việc. Hai, "sao nên vội bắt dân vất vả?". Sử liệu không chép do Tổng trấn Gia Định thành tâu xin tiếp tục đào kinh, nhưng trong ngữ cảnh lời dụ trên có thể cho phép dẫn đến giả định đó. Nếu thế thì câu này có vẻ như lời trách của vua đối với Lê Văn Duyệt trong bối cảnh dịch bệnh đang bùng phát ở miền Tây Nam Kỳ, nhất là tại công trường (tức trấn Vĩnh Thanh).

Năm Nhâm Ngọ (1822), tháng 9, Nặc Chăn xin tiếp tục cuộc đào kinh. Lê Văn Duyệt tâu cho điều động 39.000 binh dân ở Gia Định thành và các trấn Vĩnh Thanh, Định Tường, cùng binh lính đồn Uy Viễn, với hơn 16.000 binh dân nước Chân Lạp, chia làm 3 phiên, dự định sang mùa xuân năm sau (Quý Mùi, 1823) sẽ khởi công, đến mùa hạ hoàn thành. Vua chuẩn y và dụ rằng: "Đường sông Vĩnh Tế liền với một lộ tân cương, xe thuyền được lợi rất nhiều. Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta mưu sâu tính kỹ, để ý đến việc biên cương, buổi đầu đã một lần đào, công việc chưa xong. Trẫm noi theo chí trước, dốc lo làm sao một lần khó nhọc để thong thả lâu dài, khanh nên tính toán thế nào, hẹn ngày tâu công, để xứng ý trẫm. Vả chăng sông ấy không phải lợi cho Chân Lạp, vua Phiên xin thế vị tất là do thực tình. Ngày nào dụ đến nơi, họ tất sẽ có lời ngăn trở. Song việc làm quả quyết thì nên, dùng dằng thì hỏng. Trẫm đã định trước, họ không đáng kể" [6]. Lời vua có mấy nội dung cần chú ý: Thứ nhất, "Đường sông Vĩnh Tế liền với một lộ tân cương", chỉ con lộ mới đắp có tên Tân Lộ Kiều Lương, về sau có dựng bia Châu Đốc tân lộ kiều lương nối Châu Đốc với núi Sam [7]. Thứ hai, một lần nữa nhắc lại quốc kế trù biên của vua Gia Long, cùng với tư duy trước đó đã nêu "một lần khó nhọc để thong thả lâu dài". Thứ ba, việc đào kinh ngay từ đầu Đồng Phù đã tâu rõ là lợi ích mà dân và vua Chân Lạp đều được nhờ. Đây là lời không thực của Chiêu chùy, chẳng qua muốn vừa lòng, đẹp ý dự định của vua Gia Long nên buộc phải tâu như thế! Sự thật, như vua nói "Vả chăng sông ấy không phải lợi cho Chân Lạp", theo nghĩa kinh Vĩnh Tế chỉ có lợi cho Việt Nam, còn Chân Lạp không được hưởng giá trị gì khi công trình hoàn thành. Câu "vua Phiên xin thế vị tất là do thực tình", ý vua cho rằng, Nặc Chân xin đem binh dân nước ấy hợp sức tiếp tục đào kinh là một sự nghi ngờ (vị tất) [8] đối với triều đình ta, chắc gì thực lòng họ muốn thế! Bởi lẽ, triều đình Oudong lúc bấy giờ đang bất ổn, ngoài chính vương còn có nhị vương và các thân vương, luôn tranh giành ngai vàng và bị Xiêm triều chi phối, khiến nội bộ chia làm 2 phe thân Xiêm và thân Việt. Nặc Ông Chân lên ngôi ở Bangkok, 10 năm sau khi tiên vương Ang Eng (tức Nặc Ông Ấn/ Ông In) thăng hà [9]. Vừa về nước nhiếp chính, Ông Chân lại tranh chấp với các hoàng đệ Ang Suguon, Ang Duong, Ang Em, những người đã được vua Xiêm phong chức vụ gia trưởng các Hoàng tộc Cao Miên. Ông Chân phải nhờ triều đình Huế cho quân sang hậu thuẫn để giải quyết. Xiêm triều cũng phái 2 đạo quân theo 2 ngã: Battambang; Kompong Svay và Stung Treng tiến đến kinh đô Oudong. Sau hai trận giao tranh, Ông Chân thất trận chạy xuống Sài Gòn. Đến năm 1813, vua Gia Long sai Lê Văn Duyệt đưa Ông Chân về nước, trở lại ngai vàng, đồng thời cử Nguyễn Văn Thoại giữ chức Bảo hộ Chân Lạp [10]. Chính sự ở Chân Lạp như trên cho nên việc tiếp kế hoạch đào kinh Vĩnh Tế sẽ gặp chống đối ("ngăn trở") từ phe thân Xiêm. Tuy nhiên, đây là dự án mang tầm quốc gia về an ninh biên giới, đã được vua Gia Long "mưu sâu tính kỹ", nên vua Minh Mạng quyết nghị "việc làm quả quyết thì nên, dùng dằng thì hỏng. Trẫm đã định trước, họ không đáng kể".

Về việc đào kinh Vĩnh Tế, Sử Cao Miên cho biết: "Nhà Vua [Việt Nam, ĐKT] bắt buộc nhiều ngàn dân Miên làm xâu đào một con kinh dài 53 cây số từ Hậu Giang [sông Hậu, ĐKT] đến vịnh Thái Lan, tên là kinh Hà Tiên. Công tác này bắt đầu từ năm 1815 đến 1820 đã làm hao hớt một số người. Nước Việt Nam cắt hẳn phần đất bờ phía Nam con kinh coi đó là ranh giới" [11].

Ảnh Tân Lộ Kiều Lương 
những năm 50 của thế kỷ XX. 
Mảnh còn lại của 
bia Tân Lộ Kiều Lương.
(Nguồn: Ban quản lý khu du lịch quốc gia núi Sam) 
(https://phongtauhu.wordpress.com/2016/04/09/chau-doc-tan-lo-kieu-luong-ky-1828/)

Đoạn sử dẫn có 4 chi tiết chưa chính xác. Một, vua Việt Nam không "bắt buộc" dân Miên làm xâu đào kinh mà đây là sự hợp tác của binh dân hai nước. Hai, kinh đào từ Hậu Giang đến vịnh Thái Lan không phải dài 53 km mà là 91 km [12]. Ba, tên kinh không phải kinh Hà Tiên mà là kinh Vĩnh Tế. Bốn, thời gian hoàn thành kinh đào này không phải từ năm 1815 đến 1820 mà là từ 1819 đến 1824. Tuy nhiên, Sử Cao Miên đã xác thực quyết sách đào kinh của vua Gia Long ngay từ đầu, và quyết tâm của vua Minh Mạng khi tiếp tục cho đến hoàn thành.

Năm Quý Mùi (1823), tháng 2, vua cho đào tiếp kinh Vĩnh Tế. Khi đó, thổ phỉ ở Hưng Hóa

(Tuyên Quang) nổi dậy, bao vây bảo Bảo Thắng. Trấn thủ Hưng Hóa Nguyễn Đức Niên tử trận. Tổng trấn Lê Văn Duyệt nghe tin dâng sớ xin hoãn. Vua dụ rằng: "Xem tờ mật tâu của khanh biết kế hay của khanh mưu toan việc nước, trù tính việc biên. Nay mai tướng sĩ theo mệnh đã đánh vào ổ giặc, tướng giặc chẳng lâu sẽ bị giết thôi, có thể không lo đến việc miền Bắc nữa, khanh nên phát binh dân vét đào sông ấy để xong công việc. Nếu để mất cơ hội ấy thì khó bảo đảm kỳ sau, mà nước Chân Lạp có thể dòm ngó chính lệnh của ta. Phải nghiêm theo đấy. Trẫm chuyên trông ngóng, tâu về mới ăn ngon ngủ yên được" [13]. Theo lệnh, Lê Văn Duyệt phát hơn 35.000 binh dân ở Gia Định thành và các trấn Vĩnh Thanh, Định Tường, đồn Uy Viễn, cùng với hơn 10.000 binh dân Chân Lạp thi công. Tuy nhiên, chưa được bao lâu, do Tổng trấn bệnh nên vua sai Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu phụ trách thay. Ở đây, một lần nữa có thể thấy việc đào kinh thể hiện quyết tâm của Thánh tổ bởi 2 lẽ. Thứ nhất, nắm bắt kịp thời cơ hội trong nước khi sắp dẹp yên thổ phỉ ở Hưng Hóa. Vì nếu "để mất cơ hội ấy thì khó bảo đảm kỳ sau" sẽ đạt được kế sách do Tiên đế đã đề ra. Thứ hai, ngăn ngừa sự "dòm ngó" tình hình chính trị nước ta của Chân Lạp. Một chỉ dụ nhưng hàm chứa đủ cả chính sách đối nội và đối ngoại, nhất cử lưỡng toàn, trong bối cảnh lúc bấy giờ. Đến tháng 4, kinh đã đào được 10.500 trượng, chỉ còn hơn 1.700 trượng chưa đào. Do đến mùa hạ tiết trời nóng bức dễ phát sinh dịch bệnh, vua cho đình việc và ban thưởng những người có công. Riêng Lê Văn Duyệt được đặc ân thưởng một đai ngọc, tặng phẩm mà chưa có tiền lệ ân ban cho các hoàng tử tước công. Thật là vinh dự cho Tổng trấn Gia Định thành!

Năm Giáp Thân (1824), tháng 2, lấy 24.700 binh dân các trấn thuộc Gia Định thành và Chân Lap đào tiếp kinh Vĩnh Tế. Vua dụ rằng: "Việc đào sông Vĩnh Tế là vâng theo thánh toàn của Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta mà làm, thực là quan yếu cho quốc kế trù biên. Nhưng khai đào mới bắt đầu, công việc còn khó, trẫm vâng theo chí trước, năm ngoái đã đào, còn lại hơn 1.700 trượng, ấy là thiếu cái công một sọt đất. Nay nước nhà nhàn rỗi, chính nên kịp thời làm tiếp cho xong, để làm kế nhọc một lần được rỗi mãi" [14]. Hai năm trước (1824 – 2024), lời dụ của Thánh tổ đã nêu rõ: "vâng theo thánh toàn" là lời xưng tụng của vua đối với Tiên đế Gia Long về mục đích đào kênh Vĩnh Tế. Nhằm mang lại lợi ích cho giao thông, phát triển thương mại, quy dân lập ấp và quan trọng hơn cả là "quốc kế trù biên" (tạm hiểu kế sách quốc gia ngoài biên ải); "trẫm vâng theo chí trước" tức tiếp tục chủ trương của vua Gia Long, bởi lẽ hoạch định công trình đào kênh là ý tưởng của Thế tổ, đáng tiếc ngài không kịp chứng kiến ngày hoàn thành, và Thánh tổ đã thực thi di nguyện của vua cha nên viết câu này trong chỉ dụ; "thiếu cái công một sọt đất" là cách nói ẩn dụ, chỉ việc sắp hoàn thành, cần thêm một ít nữa, cũng như ở Nam bộ thường nói "làm ráng" để chỉ sự động viên, khuyến khích, tiếp thêm sức mạnh; "kế nhọc một lần được rỗi mãi" là nhắc lại lời dụ của Thế tổ khi chuẩn bị khởi đào kênh Vĩnh Tế với quan binh dân chúng trấn Vĩnh Thanh: "Đào con sông này công việc rất khó nhọc. Kế sách của nhà nước, mưu hoạch về biên thùy, đều quan hệ không nhỏ. Các ngươi nay khó nhọc, mà thực có lợi muôn đời. Vậy nên bảo nhau đừng sợ khó nhọc" [15]. Đồng thời, thể hiện sự quyết tâm của Thánh tổ đối với công trình mang tầm quốc gia này, khi Phó Tổng trấn Trần Văn Năng tâu xin cho quân dân 2 trấn Phiên An và Biên Hòa được ở lại đào đá xây thành, vua bác bỏ: "Việc xây dựng năm nay chưa tiện, sẽ đợi năm sau. Còn như sông này, liền với tân cương, rất quan hệ đến việc biên phòng, so với việc xây thành đằng nào cần hơn?" [16]. Ý trước, lời sau của 2 Hoàng đế đầu triều Nguyễn thể hiện quyết tâm đào kinh, bảo vệ chủ quyền vùng biên địa. Đến tháng 5, công việc hoàn thành. Vua dụ rằng: "Đào con sông ấy để trọn công trước, thực là lợi ức muôn năm vô cùng về sau". Bèn sai hữu ty dựng bia để ghi [17].

2. Một số nhận xét thay lời kết

- Về ý nghĩa, công cuộc đào kinh Vĩnh Tế hoàn thành sau 5 năm (1819 – 1824), qua 3 đợt, cách nay đúng 200 năm (1824 – 2024). Đây là sự kiện lịch sử trọng đại thời triều Nguyễn, do vua Gia Long hoạch định [18] và vua Minh Mạng kế thừa. Thể hiện tầm nhìn sáng suốt của vua

Gia Long về xác lập chủ quyền, đồng thời tạo điều kiện phát triển xã hội, kinh tế, giao thông

và văn hóa của cộng đồng các cư dân Việt, Khmer, Hoa, Chăm trên vùng đất Tây Nam bộ.

- Về lực lượng, sự kiện này được thực hiện chủ yếu là "binh dân", nghĩa là binh lính giữ vai trò chính, cùng dân phu, với hơn 80.000 người. Ba địa phương tham gia xuyên suốt gồm trấn Vĩnh Thanh, trấn Định Tường, đồn Uy Viễn (Trà Vinh) thuộc Gia Định thành và binh dân Chân Lạp. Chỉ huy trực tiếp tại công trường là Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại. Đôn đốc và điều khiển (Đốc suất) gồm Nguyễn Văn Tuyên, Trần Công Lại, Nguyễn Văn Tồn và Đồng Phù.

- Về tư tưởng thực hiện, qua sử liệu ghi chép, có 3 lần vua nhắc đến câu "nhọc một lần mà nhàn mãi mãi", "một lần khó nhọc để thong thả lâu dài", "nhọc một lần được rỗi mãi". Trong đó nổi bật là chiến lược "quốc kế trù biên" của vua Gia Long và "cố phòng thủ" cùng "nhu viễn" của vua Minh Mạng [19].

- Một số bổ chính. Vua Gia Long khi hoạch định đào kinh đã dụ rõ lợi ích cho cả 2 bên Việt Nam và Chân Lạp. Vua Minh Mạng thừa nhận kinh Vĩnh Tế chỉ nhằm mục đích cho Việt Nam, thế nên Nặc Chăn nghi ngờ (vị tất) những lời dụ của Thánh tổ đối với phiên thuộc khi hợp sức đào kinh. Tổng trấn Lê Văn Duyệt bị quở trách khi tâu xin tiếp tục công việc ở thời điểm chưa phù hợp (dịch bệnh đang bùng phát). Sử Cao Miên chép về kinh Vĩnh Tế có 4 nội dung chưa chính xác, nhưng là một tài liệu tham cứu xác quyết chủ trương đào kinh của vua Minh Mạng.

- Kinh Vĩnh Tế hoàn thành đã mang lại nhiều giá trị lịch sử như đã nêu. Và được tiếp tục phát huy qua đào các kinh mới: T4, T5 – Tuần Thống (kênh Ông Kiệt) và T6 từ dòng "kinh mẹ", để khai hoang phục hóa vùng Tứ giác Long Xuyên, biến vùng đất chua phèn này thành ruộng mật bờ xôi. Qua sự kiện trên, quá khứ và hiện tại được kế thừa, nối tiếp, mà xuất phát điểm từ cuộc đào kinh Vĩnh Tế, "một lần khó nhọc để thong thả lâu dài", như lời dụ của vua Minh Mạng cách nay tròn 200 năm./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Hương (1970), Sử Cao Miên, Khai Trí xuất bản.
2. Hoàng Phê chủ biên (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục & Trung tâm Từ điển học.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn (2022), Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb Hà Nội.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn (2022), Đại Nam thực lục, Tập 2, Nxb Hà Nội.
5. UBND tỉnh An Giang – Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2024), Kỷ yếu HTKHQG "200 năm kênh Vĩnh Tế - Giá trị lịch sử và tầm nhìn tương lại", TP. Châu Đốc, 14/11/2024.
6. Trần Hoàng Vũ (2017), Thoại Ngọc Hầu qua những tài liệu mới, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

_______________

[1] - Thành phố Hồng Ngự, Đồng Tháp.

[2] - Quốc sử quán triều Nguyễn (2022), Đại Nam thực lục, Tập 2, Nxb Hà Nội, tr 54.

[3] - Quốc sử quán triều Nguyễn (2022), Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb Hà Nội, tr 997.

[4] - Quốc sử quán triều Nguyễn (2022), Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr 114.

[5] - Quốc sử quán triều Nguyễn (2022), Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr 70.

[6] - Quốc sử quán triều Nguyễn (2022), Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr 239.

[7] - Trần Hoàng Vũ cho biết: "Trong năm Minh Mạng thứ 9 (1828), gần như cùng lúc, Thoại Ngọc Hầu đã liên tiếp lập hai bia đá. Bia thứ nhất là bia Châu đốc tân lộ kiều lương, dựng vào hạ tuần tháng tám (tháng trọng thu), nói về lai lịch con đường Châu Đốc – núi Sam. Bia thư hai là bia Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi ký, dựng sau tiết thu phân, nói về lai lịch việc đặt tên núi Sam là núi Vĩnh Tế". Cũng theo tác giả đã kiểm tra bia gốc thấy ghi là "thu phân chi hậu", nghĩa là cuối thu chứ không phải giữa thu. Trần Hoàng Vũ (2017), Thoại Ngọc Hầu qua những tài liệu mới, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr 311 – 312 và chú thích 1, tr 312.

[8] - Vị tất p. (cũ). Từ biểu thị ý nghi ngờ; chắc gì. Làm như thế vị tất đã tốt hơn. Hoàng Phê chủ biên (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục & Trung tâm Từ điển học, tr 1075.

[9] - Quốc vương Chân Lạp Ang Eng (sử Việt chép là Nặc Ông Ấn/ Ông In) mất tháng 8 năm 1796. Ang Chan II (tức Nặc Ông Chăn) làm "lễ đăng quang 10 năm sau khi tiên vương Ang Eng thăng hà", tức năm 1806. Xem Lê Hương (1970), Sử Cao Miên, Khai Trí xuất bản, tr 181.

[10] - Lê Hương (1970), Sử Cao Miên, Sđd, tr 182 – 183.

[11] - Lê Hương (1970), Sử Cao Miên, Sđd, tr 183 – 184.

[12] - Xem: GS.TS Nguyễn Hồng Thao (2024) "Sông đào Vĩnh Tế và vấn đề biên giới Tây Nam", trong: UBND tỉnh An Giang – Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2024), Kỷ yếu HTKHQG "200 năm kênh Vĩnh Tế - Giá trị lịch sử và tầm nhìn tương lại", TP. Châu Đốc, 14/11/2024, tr 36.

[13] - Quốc sử quán triều Nguyễn (2022), Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr 259 – 260.

[14] - Quốc sử quán triều Nguyễn (2022), Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr 331

[15] - Quốc sử quán triều Nguyễn (2022), Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr 997.

[16] - Quốc sử quán triều Nguyễn (2022), Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr 331.

[17] - Quốc sử quán triều Nguyễn (2022), Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr 351.

[18] - Hoạch định. đg. Vạch rõ, định rõ. Hoàng Phê chủ biên (1994), Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr 432.

[19] - Xem thêm: Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh Mệnh chính yếu, Tập III, Nxb Thuận Hóa, "Cố phòng thủ", tr 227 – 276, "Nhu viễn", tr 355 – 412.