Trong
cuộc chiến tranh chống Tây Sơn, ở Nam bộ, chúa Nguyễn Ánh
không chỉ được sự ủng hộ của
con cháu những lưu dân người Việt vào đây khai phá từ thế
kỷ XVII, sự hậu thuẫn của các địa chủ hương hào
qua việc xuất lương thực, tiền của nuôi quân, mà còn có
sự trợ giúp của các nhân vật nổi tiếng về tài năng
quân sự như Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Văn Tuyên, Trần Văn
Năng, ... Tuy nhiên, còn một số được Quốc sử quán
vinh danh là công thần trong buổi đầu dựng nghiệp của chúa
Nguyễn, nhưng xuất phát từ bối cảnh lịch sử (khu vực
và vùng đất Nam bộ) như thế nào? Thái độ chính trị ra
sao? Sử liệu chưa được tường minh.
Thư ngọc hầu Nguyễn Văn Thư là một trường hợp như
thế.
1. Vài nét về tiểu sử Nguyễn Văn Thư
Hiện tài liệu chi chép về tiểu sử của Nguyễn
Văn Thư không nhiều. Trong đó, nguồn
sử liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn là hai bộ
Đại
Nam liệt truyện và
Đại
Nam nhất thống chí có đề cập đến thân thế và
sự nghiệp của ông. Theo
Liệt truyện ghi: "Nguyễn
Văn Thủ (2)
Người huyện Kiến Phong, trấn Định Tường. Năm Đinh Mùi
ra đầu quân, chiêu mộ nghĩa dũng, theo Tiền quân Tôn Thất
Hội đi đánh giặc; năm Kỷ Dậu cho chức Tổng nhung cai cơ
giữ đạo Kiên Đồn, rồi thăng Chánh trưởng chi chi Tiền
hậu quân, đem quân đóng ở Sao Châu phòng giữ thủ
Ba Thắc.
Năm Canh Tuất, thăng
Phó tướng hậu quân, rồi chuyển làm Phó tướng tiền
quân khâm sai tổng nhung cai cơ, coi thu thuế nhà nước ở hai
phủ Trà Vinh, Ba Thắc, bị tội phải giáng Cai đội.
Mùa hạ năm Giáp Dần
đánh giặc ở cửa biển Thi Nại, bị đạn bắn chết, được
thờ ở đền Tinh trung trấn Khánh Hòa, sau được truy phục
Phó tướng, gia tặng Chưởng doanh được thờ ở đền Hiển
trung và miếu Trung hưng công thần."[1,
381]
So với Liệt truyện, về tiểu sử của
ông Đại Nam nhất thống chí
ghi chép vắn tắt hơn: "Nguyễn Văn
Thư: Người huyện Kiến Phong, khảng khái có khí tiết. Ban
đầu, chiêu mộ dũng sĩ theo
Tôn Thất Hội đi đánh giặc, làm đến Phó tướng Hậu quân,
Khâm sai Chưởng cơ. Khi đi đánh ở Thi Nại, bị quân địch
bắn chết, được tặng chức Chưởng cơ, thờ vào miếu
Công thần Trung hưng." [3, 1721]
Hai nguồn sử liệu trên cơ bản đều thống
nhất về các sự kiện, tuy nhiên không rõ năm
sinh của ông. Theo đó, Nguyễn Văn Thư là người huyện Kiến
Phong, trấn Định Tường (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Gia
tộc của ông, Đồng Tháp nhân vật chí cho biết
như sau: "Thân sinh là ông Nguyễn Văn Núi và bà Lê Thị
Nhạc gốc ở Bình Định, vào miền Nam khai thác lâm thủy
sản và khai hoang trồng lúa, gia cảnh ngày một khá giả. Gia
đình ông vốn có truyền thống giỏi nghề võ, bản thân ông
từng đánh cọp nổi tiếng khắp vùng. Ông bà có năm
người con trai: Nguyễn Văn Sùng, Nguyễn
Văn Thư, Nguyễn Văn Kinh, Nguyễn Văn Diện và Nguyễn Văn Thập.
Ông Thư lập gia đình,
vợ là người ở thôn Mỹ Xương (nay là xã Mỹ Xương, huyện
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), là người con duy nhất trong gia
đình, nên ông ở lại bên vợ."[5, 428]
Ở đây có hai chi tiết
chưa rõ: từ Bình Định ông Núi và bà Nhạc vào miền
Nam năm nào? Khi vào, lúc đầu định
cư ở đâu?
Chi tiết thứ nhất chưa có tài liệu xác minh.
Vấn đề thứ hai, có ý kiến như sau: "Ban
đầu vào ở một nơi bên bờ sông Tiền (nay là xã Mỹ
Luông, huyện Chợ Mới) để khai hoang trồng lúa và săn
bắn. Sau khi người con đầu bị cọp vồ mất xác, cha mẹ
ông mới dời nhà sang bên kia sông tức cù lao Giêng để
sinh sống." (3)
Theo ý kiến này, ban đầu từ Bình Định vào,
gia đình ông cư trú tại làng Mỹ Luông (thuộc huyện
Chợ Mới, An Giang nay), sau mới dời sang Cù lao Giêng (nay thuộc
xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới).Ở đây
có sự khác biệt về nơi sinh của Nguyễn Văn Thư so với
Liệt
truyện và Nhất thống chí.
Về việc thành thân của ông, cũng theo ý kiến
trên: "Vì làm lụng vất vả mà vẫn thiếu trước hụt
sau, ông Thư đã cùng mẹ chèo xuồng xuống Cái Nhum, miệt
Hổ Cứ (nay là xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng
Tháp), nơi có một số đông người đồng hương từ miền
Trung vào định cư, để trao đổi
lương thực và mua những thổ sản như cau, dừa về bán để
có thêm tiền độ nhật. Mua bán được vài chuyến,
ông Thư phải lòng và cưới một cô thôn nữ ở đây. Do vợ
là người con duy nhất trong gia đình,
nên ông Thư ở lại bên vợ cho tiện..."(4)Đối
chiếu với nội dung Đồng Tháp nhân vật chí,
tuy có khác nhau về gia cảnh trước khi cưới vợ nhưng các
chi tiết sau (vợ người thôn Mỹ Xương, ở lại bên vợ)
cả hai tài liệu đều thống nhất.
Năm Đinh Mùi (1787),
sau khi từ Xiêm về, chúa Nguyễn Ánh cho người đi chiêu mộ
quân binh đánh lại Tây Sơn. Vùng đất
Nam bộ do các chúa Nguyễn tổ chức khai mở, con cháu các thế
hệ lưu dân người Việt nơi đây hàm ơn nên nhiều
nơi kéo đến xin gia nhập. Thậm chí, Quốc sử còn cho biết,
một số tướng của Nguyễn Huệ như Chưởng cơ Nguyễn Văn
Trương, Thái bảo Phạm Văn Tham, Điều bát Nguyễn Kế Nhuận,
...
cũng đến đầu phục.[xem: 2, 228 - 229] Cùng với đó,
theo Thực lục, khi chúa Nguyễn trú ở Hổ Châu, thu họp
tướng sĩ hơn 300 người, chiến thuyền
hơn 20 chiếc, khi tiến đóng ở Mỹ Lung, sai Tôn Thất Huy,
Lê Văn Quân đắp đồn phòng thủ và cử Tôn Thất Hội
mang quân đi đánh Ba Giồng, [xem: 2,
230 - 231] Lúc bấy giờ, Nguyễn Văn Thư cùng hai em là
Nguyễn Văn Kinh, Nguyễn Văn Diện xin
đầu quân và được biên chế dưới quyền Hậu quân
dinh khâm sai đốc chiến chưởng cơ
Tôn Thất Hội. Cuộc đời binh nghiệp của ông bắt đầu
từ đây.(5)
Năm Kỷ Dậu (1789),
ba anh em ông theo tướng Tôn Thất Hội đánh chiếm Hổ Cứ,
gần Tòng Sơn (nay là Mỹ An Hưng, huyện Thạnh Hưng,
tỉnh Đồng Tháp).(6)Đến
tháng 6 cùng năm, để tăng cường phòng thủ ở dinh Vĩnh Trấn,
đồng thời lập trạm thu thuế Hoa kiều, chúa Nguyễn "đặt
đạo Kiên Đồn (ở cửa sông Tà Ôn dinh Vĩnh Trấn),
sai Tham mưu Nguyễn Ngọc Chương và Cai cơ Nguyễn Văn Thư coi
giữ và kiêm thu thuế của người Đường
[Hoa kiều] (mỗi người mỗi năm nộp 1 đồng bạc phiên.)"[2,
249] Tiếp đến tháng 10, chúa Nguyễn duyệt binh tại Đồng
tập trận và ban khen tướng
sĩ, Nguyễn Văn Thư được thăng Chánh trưởng chi tiền chi
Hậu quân. Theo tổ chức của chúa Nguyễn lúc bấy giờ, quân
đội chia làm năm dinh: Trung, Tả, Hữu, Hậu quân và
Tiên phong. Mỗi dinh gồm 5 chi, mỗi chi 5 hiệu, mỗi hiệu 3
đội, mỗi đội 4 thập. Cấp chi,
đặt chánh, phó trưởng chi. Hiệu
đặt chánh, phó trưởng hiệu. Đội đứng đầu là
Cai đội. Thập được
chỉ huy bởi đội trưởng. Về địa bàn đóng quân, Trung
quân thuộc biên chế dinh Phiên Trấn. Tả quân
thuộc tổng Kiến Đăng, dinh Trấn Định và tổng Bình
Yên, dinh Vĩnh Trấn. Hữu quân
thuộc tổng Kiến Hưng, dinh Trấn Định. Hậu quân
thuộc hai tổng Bình Dương và Tân An, dinh Vĩnh Trấn. Dinh Tiên
phong thuộc tổng Kiến Hòa, dinh Trấn Định. Duy dinh Tiền
quân do đang thời kỳ chiến tranh
nên chưa phân bổ địa bàn được.[2, 259 - 260] Như vậy,
lúc này Nguyễn Văn Thư là tướng đứng
đầu chi thuộc dinh Hậu quân và địa bàn đóng quân thuộc
hai tổng Bình Dương và Tân An, dinh Vĩnh Trấn. Đến
tháng 6 năm Canh Tuất (1790), ông được thăng Phó tướng Hậu
quân.[xem: 2, 260]
Năm Tân Hợi (1791),
tháng 4, nhân hoàng tử thứ tư được hạ sinh (tức vua Minh
Mạng sau này), chúa Nguyễn tổ chức lại việc bố phòng và
điều chuyển quan tướng. Theo đó,
Phó tướng Hậu quân Nguyễn Văn Thư làm Phó tướng
Tiền quân. [xem: 2, 286]
Tháng 6 cùng năm, chúa Nguyễn cấm người Việt
ở hai phủ Ba Xắc và Trà Vinh tranh chiếm ruộng đất của
dân Phiên [người Miên]. Chúa ban sắc rằng: "những nơi
nào từ trước đã cày cấy thành điền thì vẫn cho ở lại
mà trông coi sản nghiệp, còn dư thì để hết cho dân Phiên,
từ nay về sau không được trưng chiếm
nữa. [...], làm trái thì phải tội."[2, 257] Vì lẽ
đó, tháng 5 năm Nhâm Tý (1792), do thuộc
cấp nhũng nhiễu dân Miên, ông bị truy cứu trách nhiệm
và hạ cấp. Việc này Thực lục chép: "Giáng chức
Khâm sai tổng nhung cai cơ phó tướng Tiền quân là Nguyễn
Văn Thư làm Khâm sai cai đội. Thư dung túng cho thuộc hạ quấy
nhiễu dân Phiên, việc phát giác nên bị giáng chức. Lấy
phó trưởng chi Trung chi Tiền quân là Phạm Tiến Tuấn thay
quản hai phủ Ba Xắc và Trà Vinh."[2, 286]
Đến năm Giáp Dần (1794),
sau khi chiếm lại Gia Định, chúa Nguyễn Ánh đêm quân đánh
Bình Định. Diễn biến trận thủy chiến ở cửa biển Thị
Nại được Thực lục tường thuật như sau: "Thuyền
vua [chỉ chúa Nguyễn Phước Ánh] tiến đến cửa biển Thị
Nại. Sai Tôn Thất Hội lãnh quân các
vệ đánh các bảo Tiêu Cơ, Mai Nương, đều lấy được. Giặc
tan chạy. Ta bắt được hơn 40 cỗ đại bác và khí giới
không xiết kể. Phó tướng Tiền quân Nguyễn Văn Thư bị
trúng đạn chết (Sau tặng Chương dinh). ..." [2, 309]
Năm 1802, sau khi kết
thúc thắng lợi trong cuộc chiến với Tây Sơn, hoàn
thành thống nhất đất nước, chúa Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng
đế và thưởng công tướng sĩ cùng truy tặng công lao những
quan binh đã mất. Trong đó, "Nguyễn
Văn Thư được ban Đặc Tiến Phụ quốc Thượng tướng quân,
Thượng Trụ quốc, Khâm sai Chưởng dinh Thư ngọc hầu."[5,
429] Năm Canh Ngọ (1810), vua Gia Long định thứ vị những công
thần, gồm ba hạng: Công thần khai quốc: 4 người.
Công
thần trung tiết: 114 người. Công thần trung hưng:
258 người. Nguyễn Văn Thư được
xếp vào bậc Công thần trung hưng và được tòng tự
tại dãy bên tây ngôi thờ phụ. Thực lục ghi: "Công thần
trung hưng [...]. Ngôi phụ thờ [...]. Dãy bên tây thờ: Tiền
quân phó tướng tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thư." [2, 778]
2. Bối cảnh lịch sử cuối thế kỷ XVIII
2.1. Bối cảnh lịch sử khu vực
Hậu bán thế kỷ XVIII là giai đoạn
đầy biến động của lịch sử khu vực và sự biến động
đó xoay quanh trục quan hệ giữa Chân Lạp - Xiêm La -
Đàng Trong (7).
Ở Chân Lạp, thời gian này luôn xảy ra tranh
chấp giữa các phe phái trong nội bộ vương triều mà nguyên
nhân chính là giành quyền sở hữu chiếc ngai vàng. Từ đó,
phân chia thành nhiều phe phái, mà mạnh nhất là phái thân
Xiêm và phái thân Việt. Một sự kiện được ghi chép ở
Thực
luc về vấn đề này:
"Đinh sửu, năm thứ
19 [1757] ...
Nặc Nguyên nước Chân Lạp chết. Người
chú họ là Nặc Nhuận tạm coi việc nước. Biên thần tâu
xin nhân đó lập Nhuận để tỏ ân
nghĩa, cho vững biên cương. Chúa bắt phải hiến hai
phủ Trà Vinh, Ba Thắc, rồi sau mới y cho. Khi ấy xảy việc
con rể Nặc Nhuận là Nặc Hinh giết Nặc Nhuận để cướp
ngôi, con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên. Thống
suất Trương Phúc Du thừa thế tiến đánh.
Nặc Hinh chạy đến Tầm Phong Xuy, bị quan phiên Ốc
Nha Uông giết chết. Bấy giờ Mạc Thiên Tứ cũng tâu giúp
cho Nặc Tôn. Chúa bèn sắc phong cho Nặc Tôn làm vua nước
Chân Lạp, sai Thiên Tứ cùng với tướng sĩ năm dinh hộ tống
về nước." [2,
166] Khảo đoạn dẫn trên cho thấy, Hinh muốn dựa vào
thế lực Xiêm La để đoạt ngôi vua
Chân Lạp. Nặc Tôn cầu viện chúa Nguyễn để khôi phục
vương quyền. Qua đó đã xác tín vấn đề Chân Lạp.
Thế kỷ XVIII, với chủ
trương "Đông tiến", triều đình Xiêm thường nhiều
lần cho quân khống chế Chân Lạp và xâm lấn vùng đất
Nam bộ của Đại Việt. Mục đích của vương triều Ayutthaya
vừa nhằm áp đặt sự thống trị lên Chân Lạp, vừa
kiểm soát mậu dịch trên Biển Đông
để vươn lên khu vực Đông Bắc Á, đồng thời muốn loại
ảnh hưởng của Đàng Trong (hiểu là chúa Nguyễn) đối
với Cao Miên. Một nghiên cứu đã luận chứng cho vấn đề
này: "Xiêm vốn làm chủ vùng biển
phía tây Chân Lạp (bờ Đông vịnh Xiêm La), dùng đường
biển để khống chế Chân Lạp và phát triển ngoại thương
với Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ ... nên quyết tâm
của Xiêm trong việc bảo toàn vị trí độc tôn của mình
đối với Chân Lạp rất cao.
Mặt khác, tham vọng của Xiêm không chỉ dừng
lại ở đó. Không những chỉ Chân Lạp mà Đàng Trong cũng
đã trở thành điểm ngắm của Xiêm La trong giai đoạn này,
nhằm phục vụ cho mục đích bành trướng và mở rộng thương
mại, làm chủ luồng mậu dịch thương mại khu vực Biển
Đông. Đàng Trong nằm trên trục
chính của tuyến đường thương mại
đường biển Đông Nam Á nên thuyền buôn của Xiêm thường
ghé vào một số thương cảng để
hoạt động buôn bán và tránh bão, thăm dò tình hình
rồi từ đó tiến lên thị trường phía bắc giàu có (Nhật
Bản, Trung Quốc)." [6, 61 - 62]
Trong khi Chân Lạp đang
suy yếu vì tranh chấp nội bộ, Xiêm La mang nhiều tham
vọng thì vùng đất Nam bộ lúc bấy
giờ đang diễn ra cuộc chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn
Ánh dưới nhiều cách gọi khác nhau của một số nhà nghiên
cứu.(8)
Có ý kiến cho rằng, cuộc chiến Tây Sơn -
Nguyễn Ánh ở giai đoạn đầu (1777
- 1787) mang tính chất
khởi nghĩa nông dân chống phong kiến, chống tình trạng cát
cứ. Giai đoạn sau (1787 - 1789) là cuộc chiến tranh giữa hai
thế lực phong kiến Tây Sơn và Nguyễn Ánh. [xem: 8: 27 - 32]
Cũng thời gian này, nội bộ Tây Sơn bộc lộ những mâu thuẫn
và là mầm mống dẫn đến sụp đổ.
Nguyễn Ánh nhanh chóng nắm lấy cơ hội khôi phục thế lực,
như ý kiến nhận định: "Tây Sơn đã lập nghiệp bằng
chiếm đoạt mà không giữ toàn vẹn, phần thưởng
thì chia ra, kẻ nào có khả năng nhất,
chiếm được phần lớn nhất. Thế mà như ta đã biết,
toàn bộ Đại Việt giữa hậu bán thế kỷ XVIII có trình
độ nhân văn hóa theo lề lối người
Việt phai lợt dần từ Bắc đến Nam. Là kẻ có mộng
tưởng lớn, tài ba, Nguyễn Huệ tất
được đun đẩy tới chỗ chiếm lấy Phú Xuân để vươn
ra Bắc. Nguyễn Nhạc bằng lòng với khoảng đất anh em ông
chiếm giữ lúc ban đầu. Còn Gia Định với ao đầm kinh rạch,
mỗi bước đi là có cá sấu, có cây đổ chặn đường, đầy
vẻ huyền bí nhất thì chia cho chú Bảy yếu ớt cho
trọn tình anh em. Như đã nói, Nguyễn Ánh thừa hưởng được
mọi thất lợi do sự rạn nứt đó của Tây Sơn."[7,
321]
Từ bối cảnh khu vực như trên đã dẫn đến
những vấn đề: Thế lực nào nắm vai trò chủ đạo
trong khu vực? Qua đó tác động đến tình hình vùng
đất Nam bộ ra sao? Thái độ chính
trị của Nguyễn Văn Thư đối với thời cuộc như thế nào?
Trước hết trong bộ
ba ở khu vực (Đàng Trong, Xiêm và Chân Lạp), do nội
bộ liên tiếp diễn ra các cuộc tranh giành ngôi báu nên Chân
Lạp không giữ được thế tự chủ,
bị chi phối giữa hai thế lực Đàng Trong (chỉ chúa
Nguyễn) và Xiêm. Vì vậy, bàn cờ chính trị lúc bấy giờ
chỉ thực sự là cuộc so tài giữa triều đình Ayutthaya và
chính quyền chúa Nguyễn.
Xiêm La từ sau năm 1785,
tham vọng "Đông tiến" cũng đã lụi tàn, bởi hai lý
do. Thứ nhất, sau khi bị Quang Trung đánh bại trong trận Rạch
Gầm - Xoài Mút, tàn quân Xiêm rút chạy về nước không còn
manh giáp, đến nổi Quốc sử triều Nguyễn mặc dù không
muốn tán dương công lao của "giặc ngụy" cũng phải ghi: "Người
Xiêm từ sau cuộc bại trận năm Giáp Thìn, miệng tuy nói khoác
mà lòng thì sợ Tây Sơn như cọp". Không chỉ sợ Tây Sơn
mà ý đồ dòm ngó vùng đất Nam bộ của Xiêm triều cũng
không có điều kiện thực hiện, bởi lý do thứ hai, chính
sự tại triều đình Xiêm La đang rối ren vì đảo chính
quân sự, như một nghiên cứu cho biết: "... hậu bán thế
kỷ XVIII [...] một người Hoa gốc
Quảng Đông tên là Trịnh Chiêu vì có công đánh
đuổi quân Miến Điện nên lên làm vua (tức vua Taksin).
Ông ta sai sứ sang Bắc Kinh cầu phong nhưng sứ giả chưa kịp
về đến nhà thì Trịnh Chiêu đã bị một tướng lãnh là
Maha Kasatsuk lật đổ rồi lên ngôi tức vua Chakri hay Rama I.
Chakri cũng sợ nhà Thanh truy cứu việc giết vua Taksin nên đổi
tên Hán là Trịnh Hoa, mạo xưng là con của Trịnh Chiêu để
nối ngôi và được phong làm Xiêm La quốc vương." [11,
38]
Nam bộ thời kỳ này như đã nêu trên, về danh
nghĩa do Nguyễn Lữ cai quản, nhưng "Đông
Định Vương chỉ là người có đức độ, không có
tài trị nước yên dân"[12, 163] nên không nắm thực quyền.
Trong khi đó, Nguyễn Ánh từ Gia Định
từng bước khôi phục lại thế lực, tiến ra chiếm lại
Bình Định, Phú Xuân và Thăng Long. Vì vậy, nơi đây là địa
bàn thực lực của chính quyền chúa Nguyễn Ánh.
Tóm lại, từ bối cảnh
khu vực, từ mối quan hệ tay ba Đàng Trong, Chân Lạp
và Xiêm La, trong đó sự không tự
chủ của Chân Lạp, sự thất bại trong chính sách "Đông tiến"
của Xiêm La đã đưa thế lực của chúa Nguyễn lên
vai trò chủ đạo. Lấy Chân Lạp làm hệ quy chiếu và luận
chứng cho vấn đề, có một nhận
định xác đáng: "Một thực tế lịch sử diễn ra
là nếu như trước thế kỷ XVII, Xiêm La là yếu tố bên ngoài
chủ đạo tác động đến chính trường
Chân Lạp thì đến thế kỷ XVII -
XVIII, Đàng Trong đã từng bước dần thay
thế vị trí đó của Xiêm La. Vị trí độc tôn của Xiêm
La đối với Chân Lạp đã dần dần mất đi. Đầu thế kỷ
XVIII, hầu hết các triều vua Chân Lạp đều có mối quan hệ
mật thiết với Đàng Trong. Đàng Trong trở thành lực
lượng chính chi phối đến triều chính Chân Lạp bởi phần
lớn những lần lên ngôi của các vua Chân Lạp đều
cần đến sự giúp sức của Đàng Trong."[6, 61] Bối
cảnh khu vực như trên đã tác động
quan trọng đến tình hình Đàng Trong, mà ở đây chỉ
vùng đất Nam bộ.
2.2 Bối cảnh lịch sử vùng đất Nam bộ
Bản đồ Đại Việt
cuối thế kỷ XVIII như một bức tranh nhiều màu, mỗi
màu biểu thị một quyền lực thống trị. Theo GS. Lê Thành
Khôi, khoảng năm 1790, từ Bắc Hà đến
Đèo Hải Vân là vùng đất của
Nguyễn Huệ. Từ Đèo Hải Vân đến Bình Thuận thuộc
Nguyễn Nhạc. Phần còn lại của Đại Việt, tương ứng với
Nam bộ hiện nay là nơi đứng chân của Nguyễn Ánh. Cũng cần
nói thêm, vùng đất Nam bộ thời kỳ này còn một nhân vật
không chính danh đó là Đông Định
vương Nguyễn Lữ. (Xem bản đồ)
(Nguồn: Việt Nam - Quốc hiệu
và Cương vực qua các thời đại)
Quan sát bản đồ Đại
Việt năm 1790 của GS. Lê Thành Khôi cho thấy anh em Tây
Sơn đã chiếm ¾ lãnh thổ Đại Việt. ¼ còn lại là vùng
đất Nam bộ thuộc Nguyễn Ánh (và cả Nguyễn Lữ). Tìm hiểu
bối cảnh lịch sử vùng đất Nam bộ lúc bấy giờ thể hiện
thông qua các chính sách của hai chính quyền cùng song song tồn
tại: Tây Sơn và chúa Nguyễn.
Trước hết, từ sau khi Tây Sơn thắng Duệ Tôn
và xưng đế (năm 1778) [9, 87 -
108], chính quyền Tây Sơn chưa để lại ấn tượng tốt đẹp
gì về chính sách kinh tế - xã hội đối với dân Nam
bộ (ngoại trừ chiến thắng 5 vạn quân Xiêm trên sông Rạch
Gầm-Xoài Mút, năm 1785). Trong các chuyên khảo về triều đại
Tây Sơn,(9)
chính sách đối với vùng đất Nam bộ gần như mờ nhạt.
Một nghiên cứu về vua Quang Trung và vấn đề nội trị
[12, 145 - 154] cho biết gồm: Hành chính, quân sự, kinh tế tài
chính, văn hóa, tôn giáo, chọn nhân tài và dẹp phiến loạn.
Tuy nhiên, các chính sách trên chỉ thực hiện từ khu vực
Thuận Hóa trở ra Bắc. Phần đất
Nam bộ không được đề cập đến. Tại sao? Lý giải cho
vấn đề này, có ý kiến cho rằng: "Làm chủ Đại
Việt từ biên giới Trung Quốc đến
đèo Hải Vân, vua Quang Trung tức khắc bắt tay vào khôi
phục đất nước. Nhưng Quang Trung
lại chỉ có một thời gian rất ngắn: năm năm trị vì.
Ngài cho thành lập một kinh đô mới tại Nghệ An, trung tâm
của vương quốc, nhưng bản thân ngài lại không có thời
gian để ngự trị tại đây."
[14, 386] Qua đoạn dẫn trên cho
thấy, ‘lãnh thổ’ của Quang Trung "từ biên giới Trung
Quốc đến đèo Hải Vân"
(như bản đồ trên), thời gian trị vì rất ngắn "năm
năm", phải chăng vì vậy mà các chính sách của Quang
Trung chưa được thực thi trên vùng đất này? Cùng
vấn đề trên có một ý kiến khác: "Chủ
tâm của Tây Sơn đối với Gia Định là tiêu diệt thế
lực quân sự Nguyễn Ánh, để thu gom vật lực, tài lực để
phục vụ mục tiêu lớn hơn là tiêu diệt chúa Trịnh ở Đàng
Ngoài, hơn là chiếm cứ quản lý đất
đai. Nên trong suốt thời gian làm chủ Gia Định, Tây
Sơn chưa có một công trình nào về kinh tế - xã hội đáng
kể, khả dĩ thay đổi cấu trúc xã hội cũ, triệt tiêu
các tiềm năng xã hội có thể giúp lực lượng Nguyễn Ánh
hồi phục. Sau mỗi lần chiến thắng, đại
quân Tây Sơn rút đi, chỉ để lại một bộ phận quân
sự nhỏ ở lại lo việc phòng thủ, hơn là tổ chức một
hệ thống hành chính quản lý mới, cải tạo xã hội, thu
hút nhân tâm. Do đó, chúng ta không lạ gì khi thấy cái cảnh
lập đi lập lại là đại quân Tây
Sơn rút đi không bao lâu là lực lượng Nguyễn
Ánh hoạt động trở lại"[8,
28] Ở đây cho thấy, sự thiếu chặt chẽ của Tây Sơn đối
với Gia Định (chỉ vùng đất Nam bộ) vì "mục tiêu
lớn hơn là tiêu diệt chúa Trịnh ở Đàng Ngoài" và "trong
suốt thời gian làm chủ Gia Định, Tây Sơn chưa có một công
trình nào về kinh tế - xã hội đáng
kể, khả dĩ thay đổi cấu trúc xã hội cũ" .
Như vậy, ở Nam bộ về phía Tây Sơn, do phân
chia giữa ba anh em nên nơi đây thuộc sự quản lý của Nguyễn
Lữ. Lữ lại là người thiếu thực tài. Quang Trung không trực
tiếp cai quản vùng đất Nam bộ, trong
thời gian trị vị quá ngắn ngủi (5 năm), người anh hùng
áo vải lại dành nhiều công sức cho công cuộc tiêu diệt
chúa Trịnh và ổn định Bắc Hà. Đó cũng là lý do giải
thích tại sao các chính sách của Tây Sơn gần như chưa được
thực thi tại đây. Tất cả các vấn
đề trên đã phản ánh một trong hai lực lượng (Tây
Sơn và chúa Nguyễn) ở Nam bộ vào hậu bán thế kỷ XVIII.
Nếu Tây Sơn gần như
chưa có động thái tích cực về các mặt đến vùng đất
Nam bộ thì Nguyễn Ánh bằng những phẩm chất riêng
của mình, thông qua các hoạt động mà mục đích chính trị
cao nhất là đánh bại Tây Sơn, đã
từng bước khôi phục lại thế lực, tiến tới giành lại
quyền thống trị đất nước.
Về phẩm chất riêng, Thực lục chép: "Mùa
thu năm Ất dậu [1765], Hưng tổ băng,
khi ấy vua mới lên 4 tuổi, rồng ẩn ở nhà riêng. Lớn
lên thông minh tính sẵn, vua Duệ Tông rất yêu quý trọng,
cho ở trong cung, [...] Mùa xuân năm Ất mùi vào Gia Định,
được trao chức Chưởng sử, coi quân Tả dực. Mỗi khi có
việc quân, Duệ Tông cùng với vua bàn tính, nhiều
điều rất đúng, các tướng đều khâm phục."[2,
204] Sẽ có ý kiến cho rằng các bộ sử triều Nguyễn chưa
khách quan khi ghi chép về vua chúa quốc triều, ở đây loại
bỏ các tán tụng của sử quan còn các chi tiết cần
chú ý thể hiện phẩm chất của Nguyễn Ánh: "thông minh
tính sẵn", "cùng với vua bàn tính, nhiều điều
rất đúng, các tướng đều khâm phục". "Thông
minh tính sẵn", liệu việc như
thần ở Nguyễn Ánh được sử liệu ghi chép khá nhiều. Đơn
cử năm 1787, chúa Nguyễn Ánh đóng quân ở Mỹ Lung và
sai các tướng Tôn Thất Huy, Lê Văn
Quân, Tôn Thất Hội đắp đồn phòng thủ. Tướng Tây Sơn
Phạm Văn Tham được lệnh đem quân đánh. Quan quân chúa Nguyễn
cố thủ, Tây Sơn đánh không được, lui về Ba Lai. Vừa lúc
đó, "thái úy giặc là Nguyễn Văn
Hưng từ Quy Nhơn đem thuyền vận tải 30 chiếc đến, họp
với quân Tham góp sức chống đánh. Các tướng đều lấy
làm lo. Vua nói: "Bộ khúc của Hưng dẫu nhiều, nhưng chỉ
lo việc vận tải không dự việc chiến đấu, há lại chịu
vì Tham mà gắng sức ư? Nay hãy ra lệnh cho các đạo
cứ đóng quân cố giữ. Hưng bất quá vài tháng chở
đầy thuyền thì về. Hưng đã về thì Tham cô thế, phá sẽ
rất dễ". Không bao lâu Hưng quả đem
quân đi. Tham lui về sông Mỹ Tho, đánh bị thua luôn, lại
quay về giữ Sài Gòn. Các tướng đều phục vua tính
toán thần diệu."[2, 230]
"Thông minh tính sẵn", còn được
thể hiện qua quyết tâm cao độ của công cuộc "Gia Long phục
quốc". Một nhận định xác đáng về vấn đề này
như sau: "Chỉ tính đến thời điểm
khôi phục được Gia Định (đầu năm 1789), trong khoảng 14
năm tranh đấu với Tây Sơn, bao nhiêu lần
Nguyễn Ánh bị đánh bật ra khỏi Nam Bộ, binh tướng tan tác,
phải trốn chui trốn nhủi, nhịn đói chịu khát, bản thân
cũng nhiều lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, phải
lưu vong sang Xiêm ăn nhờ ở đậu gánh chịu nhiều nỗi nhục
nhã ...
Nhưng Nguyễn Ánh vẫn
không vơi quyết tâm đánh trả Tây Sơn thu phục đất Gia Định,
mảnh đất mà tổ tiên Nguyễn Ánh dày công gầy dựng.
Nguyễn Ánh đã vượt qua biết bao nhiêu gian khó, bao nhiêu
trở ngại để đạt được mục tiêu
đã đề ra. Để ra ngoài thiên kiến chánh trị, động
cơ phục thù của Nguyễn Ánh, thì lòng kiên trì, quyết tâm
cao độ đó thật đáng lưu ý."[8,
32]
Phạm trù "thông minh" còn được
biết đến qua việc chúa Nguyễn Ánh triệt để khai thác ưu
thế của vùng đất Nam bộ. Ưu thế đó gồm thu phục nhân
tâm và địa lợi. Trong thâm tâm người dân Gia Định luôn
nhớ ơn các chúa Nguyễn. Theo họ, cuộc sống sung túc mà họ
đang hưởng là nhờ công lao mở đất, nên đương nhiên có
bổn phận ủng hộ, giúp đỡ Nguyễn Ánh khôi phục cơ đồ.
Nguyễn Ánh triệt để khai thác yếu tố này để xây dựng
lực lượng. Nhiều lần bị Tây Sơn đánh gần như tan rã
hoàn toàn, nhưng chỉ một thời gian ngắn lực lượng chúa
Nguyễn lại hồi phục nhanh chóng. Đồng
thời đến lúc bấy giờ, sau hơn một thế kỷ khai hoang của
các lưu dân người Việt, vùng đất Nam bộ với phù
sa màu mỡ, sản vật tự nhiên phong phú, là nơi cung cấp tài
lực cho Nguyễn Ánh. Làm chủ Gia Định,
chúa Nguyễn sẽ tự chủ được nguồn lương thực dồi dào,[xem:
8, 33 - 34] một trong hai yếu tố tạo nên sức mạnh, như kinh
nghiệm dân gian đã đúc kết "mạnh vì gạo, ..."
Để thu phục nhân tâm,
ngoài triết lý dân gian "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" sẵn
có của người dân Nam bộ, chúa Nguyễn còn rất quan tâm đến
chính sách chiêu hiền đãi sĩ. Điều này chính thầy
dạy của anh em Tây Sơn cũng nhận thấy và từng lưu ý với
Nguyễn Nhạc: "Gia Định ở xa Phú
Xuân, nhân dân chưa bị khổ sở về nạn Trương Phúc Loan,
nên không căm thù nhà Nguyễn như người miền Trung.
Quân ta vào đánh quân nhà Nguyễn, nhân dân miền Nam coi là
cuộc tranh giành quyền vị với nhau, chớ không phải để
giải phóng họ. Bởi vậy hễ bên nào mạnh, được thì họ
theo, theo trong nhất thời. Rồi ai được ai thua, họ bàng quan
tọa thị. Do đó quân ta cứ lấy được
Gia Định rồi lại mất...Muốn
giữ đất được lâu bền, thì phải làm thế nào chiếm
cho được lòng dân, nhất là lòng của kẻ sĩ." [12, 90]
Chính sách đãi
ngộ hiền tài của chúa Nguyễn Ánh đã mang lại kết quả
rất nhiều danh tướng theo về đầu
quân: Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Tánh, Ngô Tùng Chu, Chu Văn
Tiếp,... Tất cả đều lập nhiều
chiến công to lớn nên sau khi hy sinh, được vua Gia Long
truy tặng Công thần trung hưng và cho tùng tự tại Công thần
trung hưng miếu.[2, 775]
Để khai thác vùng đất
Nam bộ một cách có hiệu quả, từ buổi đầu mở đất chúa
Nguyễn khuyến khích khai hoang, cho dân tự vỡ đất lập điền
và tự khai thuế. Quá trình này đã diễn ra trong hai
trăm năm, như trong một nghiên
cứu cho biết: "Buổi đầu, suốt
thời gian hai thế kỷ (1600 -
1800), xứ Gia Định còn thưa dân nhiều đất nên nhà
nước khuyến khích việc khai hoang: ai ở đâu,
muốn vỡ đất chỗ nào, chiếm hữu nhiều hay
ít, tự ý muốn đóng thuế bao nhiêu thì khai báo bấy
nhiêu, nhà nước không hạn chế, không đo
đạt hay khám xét."[15, 81] Vì vậy, người dân được
no đủ, nhiều tiểu nông trở thành địa chủ, phú hào. Để
rồi khi chúa Nguyễn trong thời gian bôn tẩu cần sự trợ
giúp, họ không do dự tiếp ứng và tự xem như một
đạo lý ở đời. Trường hợp ông
Nguyễn Văn Mậu (tức Bỏ Hậu), người làng Tân Long
(nay là xã Long Hưng B, Lấp Vò, Đồng Tháp), bậc hào phú,
chức Tri thâu kiêm chức Trùm cả mở lẫm lúa cung cấp cho
quan binh chúa Nguyễn Ánh suốt 3 tháng ròng là một minh chứng.
Cùng với chính sách cho dân tự khẩn hoang, năm
1790, sau khi lấy lại Gia Định, chúa Nguyễn Ánh còn bắt đầu
tổ chức "đồn điền". Quốc sử chép: "Vua dụ cho các
quan văn gia rằng: "Đạo trị nước, trước hết phải cho
đủ ăn. Nếu thóc nhiều của thừa thì việc gì
chẳng nên? Bốn dinh Gia Định đất
đai rất rộng. Trước kia việc quân chưa xong, đói kém xảy
ra luôn, đến nỗi ruộng vườn bỏ hoang, dân chưa ra sức
việc nông, của nước lương quân còn chưa đầy đủ. Đồn
điền là phép hay đời xưa,
nay muốn cử hành mà chưa nắm được chỗ cốt yếu.
Các khanh vốn có mưu xa kinh quốc, ở vị mình tất phải tính
việc mình, đều nên điều trần quy thức, viết thành tập
riêng tiến trình, trẫm sẽ chọn những điều hay mà đem thi
hành." Rồi ra lệnh cho các đội túc
trực và các vệ thuyền dinh Trung quân ra vỡ ruộng ở
Vàm Cỏ, đặt tên là trại Đồn Điền,
cấp cho trâu bò điền khí và thóc ngô đậu giống. Đến
ngày thu hoạch đem hết về kho (tức kho Chừ Tích, sau đổi
làm kho Đồn Điền). Lấy cai cơ hiệu Tiền dực là
Nguyễn Bình trông coi việc ấy."[2, 265]
Qua đoạn dẫn trên cho
thấy, về lực lượng lập đồn điền trước hết là quân
binh. Sau đó, còn có dân thường, ngoại kiều (Hoa, Khmer)
và cả tù phạm. Chính quyền chúa Nguyễn còn chia cấp ruộng
đất hoang cho dân nghèo, ra sắc lệnh
bỏ ruộng hoang bị tội, định mức thu thuế, ... (10)
Những chính sách kinh tế - xã hội gồm: thu
phục nhân tâm, chiêu hiền đãi sĩ, tổ chức khai thác vùng
đất Nam bộ như trên đã nêu, là cơ sở giúp chúa Nguyễn
Ánh xác lập lại vị thế đối trọng với Tây Sơn và giành
lại quyền thống trị nơi đây. Sau
đó, tiến hành các trận đánh theo mùa, lần lượt chiếm
lại Phú Xuân, Thăng Long và hoàn thành thống nhất đất
nước. Vì vậy nơi đây có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng đối với chúa Nguyễn, đúng như ý kiến
sau: "Đối với Nguyễn Ánh, nó [tức đồng bằng sông Cửu
Long - ĐKT] trở thành một
chân trời khác, một căn cứ đầy tiềm lực để ồn tiến
hành một cuộc trở lại vị trí của ông. Chính những tiềm
lực của đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là thóc gạo
tại đây, đã giúp Nguyễn Ánh có
thể đánh bại Tây Sơn ba mươi năm sau, thiết lập triều
Nguyễn và một quốc gia thống nhất mới. Đàng Trong, ra đời
trong nội chiến, biến mất trong nội chiến, nhưng Đàng Trong
lại đã định hình lại Việt nam trong mọi quy mô có
thể."[17, 250]
Tóm lại, với những
yếu tố chủ quan lẫn khách quan đã giúp chúa Nguyễn
Ánh giành được thắng lợi cuối cùng trong cuộc chiến tranh
với Tây Sơn. Tổng hợp về nguyên nhân, có nhận định
đã nêu: "Nguyễn Ánh chiến thắng nhờ chính con người
của ông, và do những sai lầm của kẻ
địch, do cái chết đến quá sớm của Quang Trung.
Trong suốt mười tám
năm, kể từ khi chạy trốn khỏi kinh đô với cha tới Gia
Định, Nguyễn Ánh đã chiến đấu không ngơi nghĩ, nếm đủ
mọi thử thách nhưng không ngã gục, chứng tỏ một
lòng can đảm và một sức kiên trì phi thường.
Nhưng ông lại cũng là một nhà cai trị. Trong
khi Tây Sơn không thấy được tầm
quan trọng chiến lược của Gia Định, Nguyễn Ánh, một khi
lấy lại được vùng đất này, đã biết biến nó thành
bàn đạp vững chắc cho cuộc chiến giành lại vương quốc.
Tính hữu hiệu của tổ chức hành chính và kinh tế của vùng
đất này được bộc lộ trong các cuộc chiến theo mùa. Sản
lượng thóc gạo phong phú, chất trong kho lẫm được cất
lên dọc con đường từ Gia Định
lên phía bắc, và tiến theo đà quân tiến, khiến quân
đội luôn được tiếp tế lương thực đầy đủ, mà không
phải nhờ vả địa phương, do đó, không làm mất cảm
tình của người dân ..." [14, 399]
Bối cảnh lịch sử khu vực và vùng đất
Nam bộ cuối thế kỷ XVIII như thế đã tác động đến xu
hướng chính trị của Nguyễn Văn Thư.
3. Thái độ chính
trị của Nguyễn Văn Thư
Bối cảnh lịch sử vùng đất
Nam bộ như đã trình bày ở phần trên, trong đó nổi
rõ những mặt tích cực và hạn chế của hai chính quyền
Nguyễn Ánh và Tây Sơn; lòng dân đối với công lao tổ chức
khai hoang mở đất của các chúa Nguyễn;
những phẩm chất riêng của Nguyễn Ánh là những nhân
tố tác động không nhỏ đến tư
tưởng của một số nhân vật đương thời, trong đó có Nguyễn
Văn Thư. Tuy nhiên, thái độ chính trị của ông như thế nào?
Để lý giải cần xét đến các yếu tố gồm: nguồn gốc
gia đình, gia phong, thầy học, bản tính cá nhân, ...
Như trên đã nêu, gia tộc Nguyễn Văn Thư không
phải là người địa phương, vốn gốc ở Bình Định.
Trong lịch sử, nơi đây đã từng là đất của tộc
Bách Việt, thuộc họ Việt Thường. Vùng
đất này được lịch sử nhắc đến dưới nhiều tên
gọi Lâm Ấp, Chiêm Thành, Champa, ...
Đến năm 1797, chúa Nguyễn Ánh đánh chiếm được Thành
Hoàng đế của Nguyễn Nhạc và đổi thành Bình Định. Tên
gọi Bình Định bắt đầu từ đây.
[3, 552]
Tiền bán thế kỷ XVIII, Bình Định nhiều lần
là chiến trường giữa quân chúa Nguyễn và quân Trịnh. Tiếp
đến khi Phong trào Tây Sơn bùng nổ (năm
1771), nơi đây là xuất phát điểm để anh em Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh vào Nam lật đổ chính quyền
chúa Nguyễn, xóa bỏ tình trạng chia cắt và đặt
cơ sở thống nhất đất nước. Trong suốt mấy mươi năm
chiến tranh, nhiều gia đình đã rời bỏ quê hương vào
vùng đất phương Nam lánh nạn và tìm sinh kế. Trong số đó
có người bị bắt buộc (tù binh, phạm nhân), có người tự
nguyện (dân thường, phú hào ...) theo
chính sách khẩn hoang của chúa Nguyễn. Ông Nguyễn Văn Núi
và bà Lê Thị Nhạc có lẽ cũng vào Nam trong hoàn cảnh
như vậy. Và như thế, khi định cư trên vùng đất mới do
các chúa Nguyễn tạo lập, theo logic triết lý dân gian như
trên đã nêu, thân sinh của Nguyễn
Văn Thư đã chịu ơn chúa Nguyễn.
Sinh ra trong gia đình
với tâm thế "thụ ơn tất báo" cho nên Nguyễn Văn
Thư cũng như các người em đều xem việc đáp đền ơn chúa
Nguyễn là việc hiển nhiên.
Ngoài giáo huấn của huyên đường, anh
em Nguyễn Văn Thư còn được vị thầy Huế truyền dạy võ
thuật. Người thầy này vào vùng đất Nam bộ có thể cũng
xuất phát từ các nguyên nhân như trên, do đó ngoài những
chiêu thức võ thuật, không thể không có bài học ân nghĩa
trong đời đã được truyền thụ
cho học trò. Không riêng người thầy Huế này, khảo
trong lịch sử, các thầy đồ Nho ngày xưa không chỉ có chữ
thánh hiền mà còn ít nhiều dạy "dăm ba" miếng võ cho môn
sinh để phòng thân. Ở họ, trong văn có võ, trong võ có văn.
Đoạn dẫn sau đây của Quách Tấn - Quách Giao khi nói
về thầy dạy của anh em Tây Sơn, tức cụ giáo Hiến là minh
chứng: "Ông Trương Văn Hiến dạy
cả văn lẫn võ. Người đến xin học văn thì bắt buộc
phải học thêm võ. Những người đến xin học võ thì bắt
buộc phải học thêm văn. Bởi có
văn không võ thì thường nhu nhược. Có võ không văn
thì thường hay cường bạo. Văn võ phải nương nhau thì đạo
làm người mới giữ được vững." [12, 21] Vì vậy, mặc
dù chưa có tư liệu thành văn ghi chép
về vấn đề này nhưng qua các trường hợp tương tự,
theo logic lịch sử cho phép suy luận,
ít nhiều anh em Nguyễn Văn Thư chịu ảnh hưởng của thầy
học đối với thời cuộc khi thể hiện thái độ chính trị.
Con người là một thực thể không chỉ mang
cá tính riêng mà còn chịu sự chi phối của gia đình và xã
hội. Gia đình Nguyễn Văn Thư như trên đã trình bày tất
yếu hình thành ở ông tính cách như sách Liệt truyện
chép: "Nguyễn Văn Thư: Người huyện
Kiến Phong, khảng khái có khí tiết ..."
(đã dẫn). Trong đó, khảng khái (慷慨)có
nghĩa là mạnh mẽ, hiên ngang, hào hiệp, rộng rãi, phóng khoáng,
... khí tiết, (氣節)
tức lòng dạ ngay thẳng, trong sạch. (11)
Như vậy, người "khảng khái có khí tiết" là người mạnh
mẽ, hiên ngang, hào hiệp, rộng rãi, phóng khoáng và có lòng
dạ thẳng ngay trong sạch. Chính đức
tính này ở Nguyễn Văn Thư cùng với bối cảnh lịch
sử - xã hội trên vùng đất Nam bộ
lúc bấy giờ đã quyết định thái độ chính trị của ông
trước thời cuộc: theo phò chúa Nguyễn Ánh.
4. Lời kết
Khi nghiên cứu nhân vật lịch sử, GS. Phan Huy
Lê đã từng nhấn mạnh: "Đánh
giá về một nhân vật lịch sử, một con người, nói chung
đã là một vấn đề phức tạp và tinh tế, đòi hỏi
các nhà khoa học phải đặt nhân vật
đó vào bối cảnh lịch sử cụ thể với tất cả mối
quan hệ phức tạp của hoàn cảnh gia đình, văn
hóa, xã hội, điều kiện hoạt động và nhất là yêu
cầu phát triển của đất nước trong
xu thế chung của thời đại và cả khu vực, để phân tích
và nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện và thỏa
đáng về mặt công lao, cống hiến, mặt tích cực cũng như
mặt hạn chế và tiêu cực." [18,
289 - 290]
Trên tinh thần đó, qua
những đóng góp của Thư ngọc hầu Nguyễn Văn Thư cho thấy
ông là một nhân vật lịch sử lớn thời chúa Nguyễn
mà lâu nay hậu thế có phần lãng quên. Từ các luận chứng
đã nêu trong bối cảnh lịch sử đương
thời đã chỉ ra rằng việc theo phò chúa Nguyễn Ánh
là điều không thể khác được ở
ông. Và kể từ quyết định đó, Nguyễn Văn Thư đã lập
được nhiều chiến công, xả thân giúp chúa phục nghiệp.
Việc truy phong Công thần trung hưng của vua Gia
Long thiết nghĩ rất xứng đáng với
sự đóng góp của ông so với các nhân vật cùng thời.
Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần tiếp
tục làm sáng tỏ:
1. Gia đình ông
Núi bà Nhạc vào Nam thời gian nào? Khi từ Bình Định vào,
thực tế gia đình Nguyễn Văn Thư là "gia cảnh ngày một
khá giả" (Đồng Tháp nhân vật
chí) hay "Vì làm lụng vất vả mà vẫn thiếu trước
hụt sau" (Wikipedia)?
2. Về nơi sinh của ông, theo Nhất thống chí
và Liệt truyện ghi: "người
huyện Kiến Phong, trấn Định Tường". Và tài liệu
khác, ở "huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang nay" (Wikipedia)(12)theo
chúng tôi cần tiếp tục nghiên cứu để tường minh. Bởi
vì, thời Nguyễn huyện Kiến Phong và Mỹ Luông, Cù lao Giêng
là hai đơn vị hành chính khác nhau. Nguyễn Văn Thư không thể
cùng lúc sinh ở hai nơi. Ở đây chỉ
xin góp một ý nhỏ về cách ghi trong Đại Nam nhất thống
chí và Đại Nam liệt truyện.
Cả hai tài liệu đều thống nhất ông là "người huyện Kiến
Phong". Huyện Kiến Phong theo Nhất thống chí chép: "Nguyên
trước là hai tổng Kiến Hòa và Kiến Đăng.
Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), đặt phân huyện Kiến Đăng. Năm
thứ 19 (1838), bỏ phân huyện, đặt huyện Kiến Phong thuộc
phủ [Kiến Tường
- ĐKT] kiêm
lí, gồm bốn tổng, 36 thôn." [4, 1703 -
1704] Theo đó, đến năm 1838 mới xuất hiện huyện Kiến
Phong, thuộc phủ Kiến Tường, tỉnh Định Tường (chúng tôi
nhấn mạnh).
Như lịch sử cho biết,
năm 1831 - 1832, vua Minh Mạng chia cả nước thành 30 tỉnh
và một phủ Thừa Thiên. Trong đó,
năm đầu chia các trấn phía Bắc thành 18 tỉnh (13 tỉnh
thuộc Bắc kỳ và 5 tỉnh thuộc Trung kỳ).
Năm sau, các trấn phía Nam được chia thành 12 tỉnh. Định
Tường là một trong Nam kỳ lục tỉnh. (xem ảnh)
.
Đất Nam Kỳ vào đầu thời
nhà Nguyễn, cho đến trước năm 1841
(nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_K%E1%BB%B3_L%E1%BB%A5c_t%E1%BB%89nh)
Như vậy, cách ghi của Liệt truyện "Người
huyện Kiến Phong, trấn Định Tường" (đã dẫn ở
trên) là chưa chính xác. Vì khi lập huyện Kiến Phong (năm
1838) thì không còn trấn Định Tường. (Chúng tôi nhấn mạnh).
Cũng xin nói thêm, không thống nhất cách ghi của Liệt truyện
không đồng nghĩa với việc phủ định Nguyễn Văn Thư là
"người huyện Kiến Phong".
3. Về cúng giỗ và sắc thờ có sự "trái khoáy"
(ngược với lẽ thường; theo cách không bình thường).[19,
986] Bởi lẽ, như có tài liệu cho biết, hàng năm vào các
ngày 25, 26 và 27 tháng 6 âm lịch, có
đến hàng ngàn người tụ hội về Phủ thờ Nguyễn
tộc [ở xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ
Mới, tỉnh An Giang] tham gia lễ giỗ ông với đầy đủ nghi
lễ cổ truyền, sau đó là các màn trình diễn, vui chơi
giải trí như hát bội, rước sắc từ Cao Lãnh về. (13)Tại
sao phủ thờ và cúng giỗ ở Chợ Mới còn sắc thờ tại
Cao Lãnh?
Một công thần trung hưng
với nhiều phẩm chất tốt đẹp: mạnh mẽ, hiên ngang,
lòng ngay dạ thẳng, trong sạch (tức khảng khái, khí tiết:慷慨,
氣節), thờ chúa hết lòng, một trung
thần nghĩa dũng (ít nhất là với chúa Nguyễn) ở vùng đất
Nam bộ, nhưng chỉ được gia tộc phụng thờ tại địa phương
cùng với bài vị ở Công thần trung hưng miếu Huế
là chưa công bằng với ông. Hậu thế cần tôn vinh đúng công
lao của Thư ngọc hầu bằng các việc trùng tu tôn tạo phủ
thờ; đặt tên ông cho đơn vị hành
chính, đường phố, trường học; lập bia ghi tiểu sử và
công trạng nơi ông sinh ra và nhất là cần lý giải những
vấn đề còn tồn nghi dưới ánh sáng khoa học. Có như thế
Lịch sử mới thật sự là lăng kính trung thực, phản ánh
chân xác các sự kiện, nhân vật và tính hấp dẫn như nó
vốn có. Bởi lẽ, "cái làm nên sự hấp dẫn của lịch
sử chính là sự chân thực và lẽ công bằng." (14)
Tìm hiểu Thư ngọc hầu Nguyễn Văn Thư cũng nằm trong quy
luật nghiên cứu chung đó.
Tài liệu tham khảo
[1]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại
Nam liệt truyện, Tập 1-2, Nxb Thuận Hóa, 2013.
[2]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại
Nam thực lục, Tập 1, Nxb Giáo dục, 2002.
[3]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại
Nam nhất thống chí, Tập 1, Nxb Lao động và Trung tâm văn
hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2012.
[4]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại
Nam nhất thống chí, Tập 2, Nxb Lao động và Trung tâm văn
hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2012.
[5]. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Hội Khoa học
Lịch sử Đồng Tháp, Đồng Tháp
nhân vật chí, Nxb Trẻ, 2015.
[6]. TS. Đỗ Quỳnh Nga,
Công
cuộc mở đất Tây Nam Bộ thời chúa
Nguyễn, Nxb Chính trị quốc gia, 2013.
[7]. Tạ Chí Đại Trường,
Lịch
sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, Nxb Tri thức
& Cty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, 2012.
[8]. Nguyễn Hữu Hiếu, Diễn trình văn
hóa Đồng bằng sông Cửu Long,
Nxb Thời đại, 2005.
[9]. Nguyễn Phương, Việt Nam thời bành trướng
Tây Sơn, Nhà sách Khai trí, 1968.
[10]. Văn Tân, Cách
mạng Tây Sơn, Nxb Khoa học xã hội, 2004.
[11]. Nguyễn Duy Chính, Việt - Thanh chiến dịch,
Nxb Văn hóa - Văn nghệ, 2016.
[12]. Quách Tấn - Quách Giao, Nhà Tây Sơn,
Bảo tàng Quang Trung Bình Định, 2002.
[13]. Quang Trung - Nguyễn
Huệ (Tập san Sử Địa), Nxb Hồng Bàng và Tạp chí
Xưa & Nay, 2012.
[14]. Lê Thành Khôi, Lịch
sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX,
Nxb Thế giới và Cty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2014.
[15]. Nguyễn Đình Đầu,
Chế
độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp
ở Nam kỳ Lục tỉnh, Nxb Khoa học xã hội và Cty
cổ phần Sách Alpha, 2016.
[16]. Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và Xã hội Việt
Nam dưới các vua triều Nguyễn,
Nxb Văn học, 2008.
[17]. Li Tana, Xứ Đàng
Trong, Lịch sử Kinh tế- Xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18,
Nxb Trẻ
[18]. Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch
sử Phan Thanh Giản, Nxb Hồng Đức
và Tạp chí Xưa & Nay, 2013.
[19]. Từ điển tiếng
Việt, Trung tâm từ điển học và Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1994.
[20]. Lê Nguyễn, Xã hội Việt Nam thời Pháp
thuộc - Nhân vật và sự kiện lịch sử,
Nxb Hồng Đức và DT Books, 2016.
Chú thích
(1)
- Hội Khoa học Lịch sử Đồng Tháp. Email: kimtruong.do@gmail.com.
Sđt: 01254701099. Địa chỉ liên hệ: Đỗ Kim Trường, số nhà
39, đường Phan Chu Trinh, thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
(2)
- Đúng ra là Nguyễn Văn
Thư nhưng Liệt truyện
chép là Nguyễn Văn Thủ (tr 381) và ở phần Sơ tập
tổng mục, tại tập 17: Truyện các quan. Mục XIV ghi là Nguyễn
Văn Thự (tr 168). Tuy nhiên sau khi tra cứu nội dung Liệt
truyện thể hiện ở tr 381 và đối chiếu với Đại
Nam thực lục, Tập 1 thì đều thống nhất với nhau. Vì
vậy, có thể kết luận nhân vật Nguyễn Văn Thủ ghi trong
Liệt
truyện chính là Nguyễn Văn Thư.
Xem: Quốc sử quán
triều Nguyễn,
Đại Nam liệt truyện, Tập 1-2, Nxb Thuận
Hóa, 2013, tr 168 và tr 381; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại
Nam thực lục, Tập 1, Nxb Giáo dục, 2002, các tr 252, 260,
274, 286, 309, 330 (chứ không phải tr 331 như phần
Mục lục, tr 1045 đã chú.)
(3)
- Theo Wikipedia. Xem: https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%B0_Ng%E1%BB%8Dc_H%E1%BA%A7u
(4)
- Theo Wikipedia. Xem: Thư Ngọc Hầu, Tlđd.
(5)
- Về thời gian Nguyễn Văn Thư đầu quân cho chúa Nguyễn Phước
Ánh có ý kiến cho rằng năm Nhâm Dần (1782). Xem: Thư Ngọc
Hầu, Tlđd.
(6)
- Theo Wikipedia. Xem: Thư Ngọc Hầu, Tlđd.
(7)
- Thuật ngữ “Đàng Trong” ở đây chúng tôi xin giới hạn
chỉ vùng đất Gia Định xưa, nay là Nam bộ.
(8)
- Chẳng hạn: Tạ Chí Đại Trường gọi là “nội chiến”.
Xem: Tạ Chí Đại Trường,
Lịch sử nội chiến ở Việt
Nam từ 1771 đến 1802, Nxb Tri thức & Cty Văn hóa và Truyền
thông Nhã Nam, 2012; Nguyễn Hữu Hiếu gọi là "nội chiến Tây
Sơn – Nguyễn Ánh trên đất Nam Bộ". Xem: Nguyễn Hữu Hiếu,
Diễn
trình văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Thời đại,
2005. tr 27. Nguyễn Phương gọi thời kỳ này "thời bành trướng
Tây Sơn". Xem: Nguyễn Phương, Việt Nam thời bành trướng
Tây Sơn, Nhà sách Khai trí, 1968; Văn Tân gọi đây là cuộc
“cách mạng”. Xem: Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn, Nxb
Khoa học xã hội, 2004.
(9)
- Xem thêm:
Quang Trung – Nguyễn Huệ (Tập san Sử Địa),
Nxb Hồng Bàng và Tạp chí Xưa & Nay, 2012; Nguyễn Phương,
Việt
Nam thời bành trướng Tây Sơn, nhà sách Khai Trí, 1968; Văn
Tân, Cách mạng Tây Sơn, Nxb Khoa học xã hội, 2004; Quách
Tấn – Quách Giao, Nhà Tây Sơn, Bảo tàng Quang Trung Bình
Định xuất bản, 2002.
(10)
- Xem thêm: Nguyễn Đình Đầu, Chế độ công điền công
thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ Lục tỉnh,
Nxb Khoa học xã hội và Cty cổ phần Sách Alpha, 2016, tr 106
– 112. Nguyễn Thế Anh cũng cho biết: "các vua chúa nhà Nguyễn
đều hết sức chú trọng đến việc dùng binh lính và tù
phạm để lập đồn điền, kể từ khi Nguyễn Ánh tái lập
đồn điền vào năm 1790, hoặc chiêu mộ lưu dân trong nước
khai khẩn dinh điền dưới sự trông nom của các quan.”. Xem:
Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và Xã hội Việt Nam dưới các
vua triều Nguyễn, Nxb Văn học, 2008, tr 133.
(11)
- Theo Hán Việt từ điển. Xem: http://hvdic.thivien.net/
(12)
- Cũng vấn đề này, Đồng Tháp nhân vật chí có phụ
chú như sau: "Nguồn tư liệu khác, có lẽ dựa vào nơi tọa
lạc mồ mả của ông hiện nay, cho ông sinh ra tại Cù lao Giêng
(nay thuộc xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang)." Xem:
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Hội Khoa học Lịch sử Đồng Tháp,
Đồng
Tháp nhân vật chí, Sđd, tr 428.
(13)
- Theo Wikipedia. Xem: Thư Ngọc Hầu, Tlđd.
(14)
- Dương Trung Quốc, Lời giới thiệu sách "Xã hội Việt
Nam thời Pháp thuộc – Nhân vật và sự kiện lịch sử"
. Xem: Lê Nguyễn, Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc – Nhân
vật và sự kiện lịch
sử, Nxb Hồng Đức và DT Books,
2016.