Chim Việt Cành Nam             [  Trở Về  ]          [ Trang Chủ ]           [ Tác giả ]

Nâng chén, cụng li, 
chạm cốc và đụng lon

Nguyễn Dư

Nước ta còn thiếu nhiều cái nhưng chắc chắn không thiếu karaoke, tiệm cà phê, quán nhậu. Chỗ này cười nói, chỗ kia hò hét. Ăn uống món gì, chất lượng ra sao hạ hồi phân giải. Trước mắt, cứ dzô xem động tiên, động tiền, động cỡn ra sao...

Đồ uống và cách uống của ta đã trải qua nhiều thăng trầm, trồi sụt. Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi (Phạm Duy).

Thời xa xưa, các cụ hãnh diện bảo nhau nam vô tửu như kì vô phong. Bọn đàn ông chúng mình không có rượu trông vô duyên như cờ không được gió phất. Những lúc trời đất nổi cơn gió bụi, ngồi trong nhà rung đùi chén tạc chén thù, chén chú chén anh, phong lưu ra phết. Rượu vào, hứng ra. Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ (Cao Bá Quát).

Rồi đến thời làm trai biết đánh tổ tôm, uống chè Chính Thái, xem nôm Thuý Kiều.

Nhưng rượu vẫn là thú tiêu khiển chính của văn nhân mặc khách.

Trời say trời cũng đỏ gay,
Đất say đất cũng lăn quay ai cười (Tản Đà).
Ngày nay ngoài rượu, chè (trà), bạn bè còn mời nhau uống cà phê (café), uống bia (bière).

Cụng li , chạm cốc tưng bừng. Mắt mờ, tay run... Dzô ! Dzô ! Quên hết mọi chuyện. Quên lời vợ con đay nghiến. Quên luôn cả cách kiếm đồng tiền lem nhem, lẩn khuất.

Uống nước nhớ nguồn.

Uống cà phê, uống rượu, uống bia thì nhớ cái gì ? Đề nghị nhớ mấy cái chén, bát, li, cốc, tách đựng đồ uống. Trước khi nhớ, xin tìm hiểu thêm mấy cái lỉnh kỉnh này một chút.

Nhân lúc trà dư tửu hậu, tội gì không đem mấy cái bát, chén, li, cốc, tách ra bàn cho sướng miệng !

Cái bát, cái chén

- Mấy khi khách đến chơi nhà
Lấy than quạt nước chén trà người xơi (Dân ca Quan họ)

- Tay tiên chuốc chén rượu đào
Đổ đi thì tiếc uống vào thì say (Dân ca Quan họ)

- Mừng ông dâng rượu ngon một bát
Thế cũng là đàn hát lọ chi (Nguyễn Khuyến)

Bát có rất sớm. Tàu và ta đều có bát.

Tên bát có nguồn gốc từ tiếng Phạn bát đa la nghĩa là cái bát ăn của nhà sư (Thiều Chửu).

- Bát cơm xơ nhờ ơn xã tắc
Gian lều có đội đức Đường Ngu (Nguyễn Trãi)

- Một bầu, một bát, vững sơn tăng,
Thế sự ngoài tai, biếng nói năng (Nguyễn Bỉnh Khiêm)


Ta dùng bát để ăn cơm. Bát lớn dùng đựng canh.

Cái chén chữ Hán là trản. Chữ Hán phân biệt 2 loại trản :

- Trản (bộ Mãnh) là chén nhỏ bằng sành, sứ hay đất nung.

- Trản (bộ Ngọc) là chén bằng ngọc.

Thông thường thì chén nhỏ hơn bát. Chén dùng để uống trà, uống rượu. Nhưng cũng có nơi quen gọi cái bát ăn cơm là cái chén. Có người dùng bát uống rượu thay chén.

Cái chén được văn thơ dùng rất nhiều. Thơ nôm của Nguyễn Trãi có 9 bài có chén rượu. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có 9 bài có cái chén. Truyện Kiều của Nguyễn Du đếm được 24 cái chén. Đủ loại chén dùng theo nghĩa đen, nghĩa văn chương bóng bảy (1).

Cái bát, cái chén do chữ Phạn, chữ Hán mà ra và đã được người Việt quen dùng từ lâu đời.

Sang thế kỉ XX, cái chén vẫn còn chiếm địa vị quan trọng trong văn học. Vũ Đình Long sáng tác vở kịch Chén thuốc độc (1921). Nguyễn Tuân viết Chén trà trong sương sớm (1940) v.v. Nhưng cái chén bắt đầu bị cái li, cái cốccạnh tranh.

Từ cuối thế kỉ XIX, xã hội Việt Nam được làm quen với một số đồ dùng bằng thuỷ tinh như chai, lọ, bóng đèn (thông phong), lọ mực của học trò v.v. của thực dân Pháp.

Mọi người bảo nhau phải trông mặt đặt tên cho mấy sản phẩm " chất lượng cao " bằng thuỷ tinh mới lạ kia.

Cái li

- Chiều nay nàng đến trong ly rượu
Tôi uống vơi vơi hết cả nàng (Đỗ Huy Nhiệm, Say)

- Ngày Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
...
Nhấc cao ly này
Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do... (Phạm Đình Chương, Ly rượu mừng)

Phạm Đình Chương vừa nâng chén vừa nhấc li.

Đại Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh Của định nghĩa:

- Li (chữ Hán, bộ Ngọc) : loài chai đá trong suốt, loại thuỷ tinh.

- Lưu li, Pha li (hay pha lê) có nghĩa giống chữ Li. Một li rượu là một chén rượu.

Huỳnh Tịnh Của đã giới thiệu cái li với mọi người. Li là một loại chén đặc biệt, làm bằng   thuỷ tinh.

Cái li đã đến từ chữ Hán lưu li hay pha li.

Tranh dân gian Oger (1909) có tấm Tiện bóng đèn pha li. Pha li của dân gian có nghĩa là thuỷ tinh.


Tiện bóng đèn pha li

Cái li phải là li thuỷ tinh. Chén sành, chén sứ hay chén đất nung, lớn hay nhỏ đều không phải là li. Cái li giấy, li nhựa của ngày nay đều là... li giả.

Từ thời Tự Đức trở về trước dân ta chưa dùng đồ uống trà, uống rượu làm bằng thuỷ tinh. Vì vậy mà thơ văn cổ của ta chỉ có cái bát, cái chén chứ không có cái li, cái cốc.

- Có chắc không hay lại nói bậy? Nhất Thanh dẫn chứng thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có cái li đây nè ! Ông không biết câu " Trong li rượu thọ ánh xuân tươi " của bài Ngụ hứng quán Trung Tân sao ? (2)

- Xin lỗi, tôi chỉ biết... cái cốc của bài Ngụ hứng quán Trung Tân thôi. Câu thơ Trản lạc xâm hoa sắccủa Nguyễn Bỉnh Khiêm được Ngô Lập Chi dịch thành Chén, cốc, ánh sắc hồng (3).

Quán Trung Tân thời Nguyễn Bỉnh Khiêm chắc chắn không có cái li hay cái cốc.

Nhất Thanh và Ngô Lập Chi đã tặng li, cốc cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đúng ra thì phải dịch chữ trản sang tiếng Việt là cái chén.

(Gần thành phố Huế có núi Ngọc Trản (Chén ngọc), được dân gian gọi là Hòn Chén).

Câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm nên dịch là Trong chén rượu thọ ánh xuân tươi (Nhất Thanh) hay Chén (rỡ) ánh sắc hồng (Ngô Lập Chi).

Cái cốc

Cốc là tên gọi cái chén thuỷ tinh của miền Bắc.

Năm 1943 Thạch Lam viết Hà Nội băm sáu phố phường. Trong bài Hàng nước cô Dần có đoạn :

" Nhưng hàng cô Dần có một chút đặc biệt hơn: cô không bán nước vối hay nước chè tươi (...). Cô bán nước chè uống với đường (...).

Ai uống nước đường thì đã có cốc thuỷ tinh, một xu một cốc. Cô múc vào cốc một thìa đường, - tuy đường đắt mà xem ra cô cũng múc nới tay lắm -, nghiêng bình chè rót đầy cốc, và đưa lên cho khách với cái nhìn của đôi mắt nhỏ, lanh lẹn, hai con ngươi đen bóng loáng, như hai con mắt của một con vật non nào.

Ăn cơm, uống rượu xong mà được một cốc nước chè đường rất nóng thì ai chả thích... " (4).

- Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ (Quang Dũng, Đôi bờ)
- Cốc rượu hồng, hi vọng sáng rung rinh,
Mùi son phấn khác gì hương trinh bạch ? (Đinh Hùng, Hương trinh bạch)
Miền Nam không dùng cốc. Nhưng gốc gác của cốc lại là... miền Nam.

Tự vị Huỳnh Tịnh Của cốc rượu (chén rượu). Nhưng Từ điển Génibrel (1898) không có cái cốc. Điều này cho thấy cuối thế kỉ XIX, cốc chưa được dùng rộng rãi trong dân chúng.

Việt Nam tự điển (1931) của Hội Khai Trí Tiến Đức định nghĩa:

- Cốc : đồ dùng để uống rượu, thường làm bằng thuỷ tinh. Có nơi gọi là ly.

- Li : cốc thuỷ tinh.

Tự điển Việt Nam (1971) của Ban tu thư Khai Trí cũng định nghĩa :

- Cốc : đồ dùng để uống rượu, uống nước.

- Ly : cốc thuỷ tinh.

Li (hay ly), cốc giống nhau. Cả hai đều là đồ dùng để uống nước, uống rượu, làm bằng thuỷ tinh. Tại sao đã có li rồi còn rắc rối có thêm cốc?

Tên cốc từ đâu ra ? Xin tạm đưa ra hai cách giải thích.

1- Tự vị Huỳnh Tịnh Của có cái cúp (tiếng mới), nghĩa là cái chén cán.

Có thể cái cúp (coupe) của Pháp bị nói trại thành cái cốc.

2- Trở lại thời thực dân Pháp mới chiếm đóng nước ta...

Đạo Thiên Chúa được người Việt gọi là đạo Cơ Đốc.

Tự điển Khai Trí Từ điển Đào Duy Anh cho biết Cơ Đốclà phiên âm của chữ Christ ( Đức chúa cứu thế). Christ được Tự điển Gustave Hue (1937) phiên âm là Cơ lợi tư đốc. Cơ lợi tư đốc nói gọn lại Cơ Đốc

Mặt khác, cristal của tiếng Pháp được ta gọi là thuỷ tinh, pha li.

Có thể suy đoán rằng cái chén thánh bằng cristal dùng trong các buổi lễ của nhà thờ đã được giáo dân phiên âm theo cách nói của người Việt.

- Cristal có âm đầu crist, phát âm giống Christ.

- Christ được phiên âm và rút gọn thành Cơ Đốc. Có thể crist cũng đã được các giáo dân phiên âm thành cơ đốc. Cái chén thánh bằng thuỷ tinh được gọi là cái cơ đốc.

- Cơ đốc được rút gọn thành cốc. (Cơ + Đốc = C + ốc = Cốc).

Cristal (thuỷ tinh) trở thành cốc. Cái chén bằng thuỷ tinh được gọi là cái cốc.

Tranh dân gian Oger có cái Đèn cốc.
 


Đèn cốc

Đèn cốc nhìn thấy cả bên trong lòng đèn. Đèn cốc là đèn làm bằng thuỷ tinh.

Cốc, li đều có nghĩa là thuỷ tinh. Cái chén thuỷ tinh được trong Nam gọi là cái li, ngoài Bắc gọi là cái cốc.

Đồ thuỷ tinh được dân ta ưa chuộng, được khuyến khích sản xuất :

Việc kỹ nghệ, việc bán buôn,
Nơi lò hấp bát, nơi khuôn đúc đồng,
Chè tơ lụa gai tơ nhung vỏ,
Với đồ sơn vân mẫu pha lê.
Dao với quạt, tàn với xe,
Đủ mùi hải lục, họp nghề nông thương... (Bài ca Á-Tế-Á, 1905) (5).
Khoảng năm 1950 Hà Nội có kem cốc. Có cốc nguyên tử làm bằng thuỷ tinh được tôi luyện đặc biệt, khi vỡ thì vỡ thành mảnh nhỏ không có cạnh sắc, mũi nhọn (verre pyrex, verre sécurit).

Thực dân Pháp còn để lại cái tách (tasse) uống cà phê. Tách nhỏ hơn cốc, thường làm bằng sành, sứ. Tách khác chén ở chỗ có tay cầm.

Sau 1975, miền Nam được nếm mùi cà phê cái nồi ngồi trên cái cốc. Thật ra chỉ là bình mới rượu cũ thôi. Cà phê phin (filtre) được đổi tên mới ngộ nghĩnh.

Cái nồi ngồi trên cái cốc. Cái nồi Việt Nam ngạo nghễ ngồi trên đầu cái cốc Tây. Ta đã thắng, đã đồng hoá được thực dân ! Cái thời ăn xó mó niêu đã qua, cái nồi đường đường bước lên địa vị ăn trên ngồi trốc.

Công dụng chính của li, cốc bây giờ là chứa bia. Sành điệu thì dùng li, cốc bằng thuỷ tinh. Lạc điệu thì li giấy, cốc nhựa. Say hay sai cũng chả đụng đến cái lông chân ai.

Nước ta bây giờ có rất nhiều thương hiệu bia. Chưa uống mà đã hoa cả mắt. Hà Nội, Hoàn Kiếm, Trúc Bạch, Halida (Hà Nội liên doanh với Đan Mạch), Huda (Huế-Đan Mạch), Sài Gòn đỏ, Sài Gòn xanh, 33, 333, BGI (Brasserie et Glacière de l'Indochine thời Pháp thuộc), Larue (ta quen gọi là bia con Cọp)... Nghe nói vài tỉnh khác cũng lăm le sản xuất bia. Đấy là chưa kể cả chục thứ bia ngoại. Bia ngoại chưa chắc đã... đã, nhưng chắc chắn là đắt hơn bia nội. Đúng đứt đuôi con nòng nọc rồi! Phải đắt... mới sang chứ!

Trăm hoa đua nở, trăm quán đua mở bia.

Từ sáng đến tối, từ tỉnh thành đến thị xã, ngày ngày tuổi trẻ cụng li, chạm cốc. Mấy ông già nâng chén. Đám ngưu ẩm đụng lon. Vui như làng vào đám.

Trăm năm bia đá còn đầy
Nghìn năm bia miệng phây phây, ai cười?

Nguyễn Dư
(Lyon, 4/2014)


(1)- Đào Duy Anh, Từ điển truyện Kiều, Khoa Học Xã Hội, 1989.
(2)- Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu, Đất lề quê thói, 1968, Đại Nam tái bản, tr. 146.
(3)- Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Văn Học, 1983, tr. 296.
(4)- Tuyển tập Thạch Lam, Văn Học, 1988, tr. 211.
(5)- Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX, Văn Học, 1976, tr. 688.