HỆ
THỐNG ĐIỆU VÀ HƠI
TRONG
NGHỆ THUẬT CA - ĐÀN HUẾ
VĨNH PHÚC 1. Đặc điểm của điệu Bắc - Âm
nhạc Huế - gồm cả âm nhạc bác học và dân
gian tuy hình thành trên cơ sở hai điệu thức Bắc và Bước
đầu khảo sát các bài bản ca, đàn Huế,
cả bác học và dân gian chúng tôi có nhận xét sơ
bộ: âm nhạc Huế, chỉ sử dụng một
thang âm duy nhất, đó là thang âm Bắc, thang âm phổ biến nhất trong âm
nhạc cổ truyền người Việt, mà theo giáo
sư Jắc Sayây trong giáo trình "Sự phát triển của
ngôn ngữ âm nhạc" (Bản in Xêlem của trường
đại học Xoócbon, Pari - Dẫn theo Lê Yên trong Những vấn đề cơ bản
trong âm nhạc Tuồng. Nhà xuất bản Thế
giới, Hà Nội 1994), đã dẫn chứng: đó là thang
âm rất cổ, là tiếng nói chung của rất nhiều
dân tộc suốt từ Đông sang Tây, cũng là một
thang âm cổ của miền Bắc Việt
Đã có nhiều
công trình nghiên cứu nghiêm túc về thang âm này chúng tôi không đi sâu. Đại
thể, đa số được sử dụng với tính chất ngũ cung đúng, bậc nào của thang âm cũng
ổn định và có thể làm âm chủ... Tuy nhiên,
trong âm nhạc truyền thống Huế, thang âm Bắc này
được sử dụng ngoài tính chất là một
điệu thức Bắc (hay điệu Bắc) còn có
thêm những đặc điểm khác là hai bậc
"xự" và "cống" thường không ổn định, có
chiều hướng già, biểu hiện rõ trong phong cách
diễn tấu đàn Huế (kể cả phong cách ca
Huế) là hai bậc "xự" và "cống" này thường
rung (µ). Điệu
Bắc được thể hiện như trên trong âm
nhạc Huế thường gọi là hơi khách, hoặc các bài bản khách. Vấn
đề này không chỉ đơn thuần về kỹ
thuật diễn tấu (đàn và ca) mà có ý nghĩa trong
việc biến hóa tính chất màu sắc của
điệu thức. Với
đặc tính trên, thang âm này là cốt cách của các bài
bản khách mang sắc thái vui, từ
dịu nhẹ, thanh thản đến rộn rịp, sôi nổi và cũng để diễn tả sự trang nghiêm,
trịnh trọng, hùng tráng... Từ
thang âm cơ bản trên, âm nhạc Huế được
thâm nhập thêm những yếu tố khác, đó là sự
"non", "già", không điều đặn trong thang âm. Chính
yếu tố này tạo cho ngôn ngữ âm nhạc dân gian và
bác học Huế mang tính đặc thù, địa
phương, là cốt cách tạo nên các bài bản, làn
điệu mang sắc thái buồn, bi ai, vương
vấn của điệu Nam. Tạm
thời quy bậc Hò đô,
ta có thang âm
Nếu
ở điệu Bắc hơi khách rung ở Xự và Cống, thì điệu Nam lại rung ở
bậc Hò và Xang, bậc Xê
vỗ. Hiện tượng non
và già không thể ký
hiệu bằng dấu thăng dấu giáng trong hệ
thống bình quân. Có nghĩa là non
và già đều chưa
đến 1/2 cung (100 cent, 4.5 comma). Có thể vì thế tính
chất này mà tai nghe theo thẩm âm hệ thống bình quân
thường cho là "lơ lớ". Trong điều kiện
hiện tại, chúng tôi không có đủ các phương
tiện để cho các hiện tượng non, già
một cách chính xác, nhưng qua phân tích bằng tai nghe thì
thấy sự "lơ lớ" đặc trưng đó là có
cơ sở. Như chúng ta thấy, quãng cách giữa hai
bậc "hò" và "xê" mang tính ổn định, tạo thành
một quãng 5 đúng, tương đương với
quãng 5 đúng hệ âm bình quân[1]. Tuy nhiên,
trong cái khung ổn định này lại chứa hai bậc
xự (non) và xang (già) tạo ra những quan
hệ quãng mang màu sắc trung tính: không ra trưởng cũng chẳng ra thứ, và từ xê
đến liu hình thành quãng
ổn định: quãng 4 đúng (là quãng 5 tự nhiên
đảo): Hò - Xê (quãng 5) = Xê - Liu (quãng 4)... cũng chứa các quãng
trung tính do quan hệ quãng: Xê - Cống (non), và Cống (non)
Liu [2].
Và
điều này càng trở nên bí hiểm hơn khi quy
luật rung của các bài bản, làn điệu Nam là rung (µ) ở hò và xang, xê vỗ (m) càng làm
cho các bậc ổn định có chiều hướng
bất ổn định và không điều đặn:
Đây
cũng là một đặc điểm của điệu
Ngoài ra,
sự liên quan mật thiết giữa điệu thức
Nam với một số nhạc khí của các nghệ nhân
đàn Huế cũng đáng quan tâm - Đó là chiếc kèn
bóp - hệ thống các âm được chia rất
đặc biệt, hiện nay chúng tôi chưa kiểm
chứng được nhưng đại thể rất gần với thang âm
của điệu Nam, ví dụ: trong đó các lỗ khoét
ứng với các bậc Hò - Xê
- Liu là hình thành các quãng đúng: 8 đúng, 5 đúng, 4
đúng (xem thí dụ trước). Trong cái khung ổn
định của các quãng đúng này, lỗ kèn
được chia khá đều cho những bậc còn
lại, từ Hò đến
Xê có: Xự, i, Xang; từ Xê đến Liu có Cống, Phàn hình thành một thang 7 âm chia tương
đối đều với đầy đủ các
bậc phụ của điệu Nam Huế: (Các bậc phụ i, Phàn là những
biến cung tham gia vào thang âm cũng không bao giờ hình thành
nên các quãng trưởng thứ bình quân, hai bậc i và Phàn
vẫn có chiều hướng non). Về điều này,
trong luận án "Âm nhạc Việt Nam cổ truyền"
của mình, giáo sư Trần Văn Khê đã đề
cập đến khi so sánh về sự tương
đồng giữa thang âm Pélog
của người Java (Indonésia); nhưng gần gũi
nhất là kết quả nghiên cứu của tác giả
Vũ Nhật Thăng trong công trình "Tìm hiểu thang âm của một số bài
bản thuộc các điệu Xuân, Ai, Oán" [4]
trong đó, thang âm quá độ Xuân - hệ quả của
các thang bồi âm xâm nhập vào thang âm 7 bậc chia
đều, có quan hệ gần gũi nhất với thang
âm của điệu Nam trong âm nhạc cổ truyền
Huế. Qua
khảo sát thực tế, cũng như căn cứ vào
kết quả nghiên cứu tính toán khoa học của tác
giả Vũ Nhật Thăng ở thang âm quá độ Xuân
sau đây: Từ
kết quả nghiên cứu, tính toán trên sơ đồ
của thang âm Quá độ xuân,
chúng ta có thể thể hiện sự non già của thang âm
này như sau: Các
bậc Xự, Xang, Cống có khuynh hướng bị hút về các
bậc ổn định của khung quãng 5 đúng: Hò - Xê. Có thể viết
đầy đủ hai cung phụ của điệu Các cung
phụ: I, Phàn (mà có người gọi là những biến
cung) xuất hiện trong đường nét của các bài
bản thuộc điệu Nam với chức năng Thêu, lướt nhưng vẫn làm tăng thêm tính
chất của một thang 7 bậc chia đều và chính
xác các bậc phụ này (yếu, không ổn định)
bị các bậc chính (mạnh, ổn định) thu hút,
càng làm cho thang âm đều [6]
(đúng) cơ bản, trở thành một thang âm không
đều đặn, bộc lộ rõ đặc tính
của điệu Nam - nhất là điệu Nam hơi Ai. Qua khái
niệm trên, chúng tôi thấy điệu Bắc và Nam
Huế hình thành chủ yếu trong thang âm: Hò xự xang xê cống (tạm thời quy thành: đô rê fa sol la). Điệu
Bắc Huế được thể hiện theo thang
ngũ cung đúng (tự nhiên). Ngoài ra,
những nguyên tắc thuộc về diễn tấu như
rung (µ), vỗ (m)
được quy định khá chặt chẽ thì liên quan
trực tiếp đến các loại hơi (air). 2. Khái niệm về điệu và
hơi PGS.
Vũ Nhật Thăng giải thích khái niệm "Système modal"
(hệ thống điệu thức, hay thể
điệu) mà GS. Trần Văn Khê đề xuất trong
luận án tiến sĩ về âm nhạc cổ truyền
Việt Nói
như thế, để chứng tỏ phần nào sự
khác biệt giữa Điệu
thức trong âm nhạc phương Tây với Điệu
trong âm nhạc Huế (hay của âm nhạc Việt Vì thế,
lấy cái mẫu mực, công thức của một lý
thuyết âm nhạc của một nền văn hóa này
(phương Tây) để xem xét, giải mã âm nhạc
thuộc nền văn hóa khác (phương Đông)
thường dẫn đến sự khiên cưỡng, ít
chính xác. Đòi hỏi và truy cứu ý nghĩa điệu
thức Việt Nam (cái mà GS Trần Văn Khê đề
xuất - Système modal - để chỉ hai hệ thống
Nam Bắc trong âm nhạc Việt Nam) phải bộc lộ
những đặc tính của điệu thức trong âm
nhạc phương Tây là không thể! Điều này
một số nhạc sĩ đôi khi bất chấp,
đã phân tích âm nhạc Huế cụ thể là điệu
Hò mái nhì như sau: "... Nó
thuộc điệu thức 5 âm nhưng đã sử
dụng tài tình nốt biến âm Rê
thăng kết hợp với nốt Mi ngoài hợp âm... sự xuất hiện nốt Si (duy nhất) trong
điệu thức tạo ra sự đan xen giữa các
điệu thức thứ - trưởng kết hợp"...
hoặc: "Về hòa âm phối khí trong ca nhạc Huế
cực kỳ phức tạp. Có hình thức phức
điệu trên chủ điệu... Do cách diễn tấu
nhạc khí với nhiều kỹ thuật phức tạp,
tinh vi, nên ta còn nghe được rất nhiều nốt
hoa mỹ, nốt ngoài hợp âm"...[7] Âm
nhạc Việt Quan
niệm âm nhạc Nho giáo nhập vào Việt Dù
vậy, cung Nam, cung Bắc hay là điệu Nam, điệu
Bắc, là "sản phẩm thuần Việt" trong quá trình
thanh lọc triệt để yếu tố Trung Hoa
để Việt hóa... thì hai khái niệm này cũng là di
căn của nhạc luật Trung Hoa bén rễ trong
nhạc luật Việt Nam từ thời Hồng
Đức - thời kỳ đã có sự tự chủ
về âm nhạc, không rập khuôn mà chỉ "kê cứu"...
Đó là hai luật Dương Kiều và Âm Kiều là
dấu vết của Luật
(Yang: dương) và Lữ
(Yin: âm) trong âm nhạc Trung Hoa mà nền tảng đặt
trên nguyên tắc 12 ống phát thanh (12 tuyaux sonores) có một
độ cao tuyệt đối, âm thanh dài nhất
được gọi là Hoàng chung có một dung tích vừa
tới 1.200 hạt kê, được chia thành hai hàng: 6
ống hàng chẵn và 6 ống hàng lẻ, lệ thuộc
nguyên lý siêu hình Âm (Lữ) và Dương (Luật) [10]...
Hai luật Dương kiều
và Âm kiều năm Hồng
Đức, qua nhiều biến chuyển đã
được nhập làm một trong khái niệm về
hai hệ thống bài bản, hai hệ thống
điệu thức đối lập nhau - một sáng
một tối, một cứng một mềm. Đó là
hệ thống Bắc và hệ thống Nam cùng với các "biến thể" khác liên quan đến các loại hơi, mà nhạc sĩ
Thụy Loan đã nhiều lần đề cập trong các
công trình của mình. Tuy nhiên
khái niệm Bắc - Nam khi đã được dân gian hóa
thì linh hoạt, tự do hơn không hề có những
vết tích ràng buộc của thang âm Luật - Lữ,
thậm chí cả Dương
kiều và Âm kiều
năm Hồng Đức. "Ý thức cao độ tuyệt
đối vẫn không được nhập tịch trong
âm giới, nên trong các bản hợp tấu, nhạc sĩ
đều lên dây nhạc cụ theo một âm bất kỳ
của một cây đàn nào đó, hay là ước đoán
theo tầm cữ giọng của ca sĩ mà họ hòa theo,
chứ không theo âm mẫu (diapason). Kể cả nhịp
điệu, cũng chỉ nhịp bằng cảm giác
(Sensation), vì vậy bộ sanh, phách hoặc trống
chầu có một vị trí quan trọng không thể thay
thế bằng máy tiết phách (métronome). Bộ sanh có
nhiệm vụ quan trọng để ra dấu hoãn
điệu, cấp điệu hay bình điệu (lento,
presto,modérato). Một bản nhạc có thể bị cả
ba nhịp độ trên chi phối, ít khi có một bản
nhạc đơn nhịp, bởi âm điệu của
nhạc Việt Nam bị sự chi phối của thi ca, vì
người ta quan niệm thi ca là nguồn gốc của
cảm hứng"... "Trong một bản nhạc, chỉ có
"nốt" của phách mạch (note du temps fort) mới không
biến, còn những nốt khác có thể sửa
đổi tùy theo "tông" (tonanité) của ca từ... Những
nhạc sĩ có tài, khi diễn tấu thường chỉ
tôn trọng có cái "nốt" ở phách thứ nhất(1er
temps) của mỗi nhịp" [11]. Như
thế, Điệu trong âm
nhạc cổ truyền Việt Trong ca
Huế, mỗi điệu sinh ra rất nhiều hơi. Hơi sinh ra không
hẳn hoàn toàn do sự biến đổi rõ rệt ở
thang âm mà đôi lúc rất trừu tượng,
thường dựa vào tính chất, sắc thái vui buồn
mà đặt ra, và có thể, liên quan đến đặc
tính diễn tấu của các nghệ sĩ đàn Huế
như đã nói. Ví dụ: "Hơi xuân" là hơi nhạc
của những bài bản chất chứa một niềm
vui nhẹ, thanh thoát như ở bài Nam Xuân; "hơi thương" với tính chất
trìu mến, bâng khuâng, tiếc nhớ như bài Nam thương, Nam bình; hoặc "hơi
thiền" mang âm hưởng của các điệu
xướng, ngâm, tán, tụng trong âm nhạc Phật giáo
như các bài Ngũ đối
thượng, Ngũ
đối hạ, Lý con sáo
(thiền), Phú lục chậm... Một
số nghệ nhân ca nhạc Huế thừa nhận là
ở Huế ít khi gọi điệu Bắc hay điệu Vì
vậy, để thống nhất chúng tôi vẫn dùng
điệu Bắc và Điệu
Bắc có bốn hơi: - Hơi quảng: là hơi
nhạc của những bài bản ít nhiều mang âm
hưởng nét nhạc miền Nam Trung Quốc. - Hơi đảo: là hơi
nhạc của những bài bản thuộc điệu
Bắc nhưng có nhiều đoạn chuyển hệ thang
âm: ngũ cung đảo. - Hơi thiền: là hơi
nhạc của những bài bản mang âm hưởng
xướng, tán, tụng trong âm nhạc Phật giáo. Theo
nhạc sĩ Vĩnh Phan, hơi thiền cũng là hơi
khách (Bắc). Trong một bài hơi khách có hai cung y, phàn (mi, sib) thì dĩ nhiên có
chuyển hệ; trong một bài hơi khách mà hai cung xự, cống luôn có mặt
trong dứt câu hay ở đầu ô nhịp, lúc đánh cho
ta cảm giác một âm giai thứ hoặc dùng cả hai cung
y, phàn nữa thì hơi
đó nhất định là hơi thiền: Hò
xự (y) xang
xê cống (phàn) liu (Do
re mi
fa sol
la
sib do) - Hơi nhạc: là một trong
những hơi quan trọng trong ca nhạc Huế, là
hơi của những bài bản mang phong cách trang trọng,
cao nhã có pha lẫn ít nhiều khí vị hùng tráng [13]. Điệu
Hơi xuân, hơi thương, hơi
ai, hơi oán
với các sắc thái từ vui dịu nhẹ đến buồn thương sầu oán... Giữa
điệu Bắc và Như
đã trình bày, hơi trong ca nhạc Huế, nhất là
lĩnh vực nhạc cổ điển Huế - ca
Huế, đàn Huế thật quá trừu tượng. Cách
phân các loại hơi như trên, như các hơi ở
điệu Bắc chẳng hạn, rõ ràng không hề
biểu lộ bằng sự biến đổi ở thang
âm mà liên quan đến nhiều yếu tố khác, chẳng
hạn về nhịp độ. Vì vậy mà những bài
bản điệu Bắc thường được ghi
chú nhịp độ từ nhanh
đến vừa;
điệu Qua
bốn hơi của điệu Bắc: Quảng, đảo, thiền, nhạc, chúng tôi
vẫn chưa tìm thấy sự biến đổi mang tính
quy luật trong thang âm. Có thể điệu
dùng để chỉ tính
chất bài bản, còn hơi
dùng để chỉ sắc
thái cụ thể của bài bản chăng? Riêng hơi
dựng - gọi là sắc thái trung gian giữa hai
điệu Bắc và Nam, các nghệ nhân ca Huế và đàn
Huế có nhiều cách đánh giá và nhận xét khác nhau.
Tựu chung có hai cách: 1.
Một bài thuộc điệu Bắc mà rung ở bậc Hò và Xang, Xê vỗ (là quy
luật rung của điệu 2. Ca hơi dựng có nghĩa là dựng hơi ca lên (nhạc
công thì dựng hơi nhạc lên) nghe khác với ca bình
thường. Ca dựng chỉ là một cách biến
đổi sắc thái (biến thái) cũng như từ Ai sang Oán (Tứ đại
oán), cơ bản vẫn giai điệu ấy ( Trong quan
điểm thứ hai này, lại không chỉ ra sự "khác
với hơi ca bình thường" là khác ở chỗ nào, và
biến thái thì biến thái ra sao trong đường nét giai
điệu hoặc cụ thể ở thang âm. Còn quan
điểm thứ nhất lại không đề cập
đến ý nghĩa của từ "dựng" và những
biến đổi của nó. Theo chúng
tôi, hai nhận xét trên đều đúng, nhưng tách riêng ra
thì thiếu. Qua nghiên cứu bước đầu, chỉ
ở Cổ bản
thường và Cổ
bản dựng thì sự "mượn" bậc rung
của điệu Qua so
sánh hai bản (thường và dựng), vấn đề
"dựng hơi ca, hơi nhạc" lên, có thể thấy rõ
ràng từ nhịp đầu, là sự nâng lên của
hơi dựng so với cổ bản khách. Hai bài
trên được ký âm theo Hò
Sol. Các bậc rung của điệu Bắc: Xự, Cống (Xự
viết tắt được thay thế bằng U để tránh nhầm
với Xê cũng vần X) tạm tương ứng
với các nốt La, Mi qua cổ bản dựng
được thay thế bằng các bậc rung của
điệu Nam: Liu, Xang tương ứng
với các nốt Sol, Đô. Về
hơi Dựng nghệ nhân đàn Huế Trần Thảo
cho rằng: Ca - Đàn Huế có bài: Cổ Bản Khách,
chứ không phải Cổ Bản "thường" như
một số Nghệ sĩ biểu diễn Ca - Đàn
Huế thường gọi. Vì có Hơi Khách, nên mới "Biến thể" ra Hơi Dựng. Chúng ta nghe kĩ lại
thì hoàn toàn không có Hơi Dựng, mà chỉ có tên bài Cổ
Bản Dựng. Khi Ca
hoặc Đàn bài: Cổ Bản Dựng, Nghệ nhân
sử dụng Hơi Thí
dụ: Công, Xê
Liu Công Xê Xàng Xự (Câu mở đầu Cổ Bản
Dựng)
(Rung Họ (Liu) và Xàng) Và
Cổ Bản Khách. Xê Xàng
Công Xê Xàng Xự (Câu mở đầu Cổ Bản Khách) (Rung Xự và Cống) Với
cách sử dụng này, chúng ta có thể khẳng
định: Hơi Dựng chính là Hơi Trong 4
hơi của điệu Tuy nhiên hơi xuân Huế có thủ
pháp nhấn rung đặc biệt là âm bậc xang và liu thường rung nhấn lên khoảng một
cung rồi trở về âm bậc chính. Âm bậc xự và cống rung như điệu Bắc. Âm bậc xê dùng kỹ thuật mổ
(nhấn rồi thả thật nhanh). Có khi hơi xuân
lại xuất hiện âm bậc phàn cao hơn âm bậc cống
một chút. Hơi xuân có trong bài Thài bát dật (đệm
cho điệu múa Bát dật trong cung đình), bài Nam xuân (khác
bài Nam xuân trong nhạc tài tử Nam bộ có thang âm là hò y
xang xê phàn liu), thường mang tính chất
đĩnh đạc, uy nghiêm và tươi vui hơn
hơi ai, Còn hơi oán diễn tả
điệu buồn sâu xa, có tính chất oán thán. Oán tự
nguồn gốc là âm cống
(la) trong bài Chinh phụ, thuộc điệu
hò xư xang
xế oán liu
(fa sol#
sib do#
mib fa) hoặc:
(la do
re
fa sol la) Âm
bậc cống trong hơi này được gọi là oán,
vào hơi nhạc thì đọc trại ra là oan. Trong cách
phân loại các hơi trong ca nhạc cổ truyền
Huế, các nhà nghiên cứu (chỉ một số ít nghiên
cứu thuần túy âm nhạc) đã phân chia theo nhiều
cách khác nhau, nhưng đại thể có hai cách chủ
yếu. Cách thứ nhất: chia chi tiết, tỉ mỉ
như cách chia thành 4 hơi của điệu Bắc và 4
hơi của điệu - Nhóm các
bài điệu - Nhóm các
bài điệu Bắc, gồm:
hơi khách - hơi dựng. Cách phân
chia thứ nhất, tỉ mỉ, chi tiết nhưng
chỉ dựa vào tính điệu của các bài để
xếp loại mà không đưa ra được những
sự khác biệt cụ thể bằng âm nhạc có tính
hệ thống, quy luật để phân biệt hơi này
với hơi khác của điệu Bắc cũng như
điệu Nam. Lê
Văn Hảo trong bài "Một vốn quý trong kho tàng âm nhạc Việt Nam cổ
truyền" (sđd) có tham khảo công trình "Âm nhạc Việt Nam
cổ truyền" của Trần Văn Khê, cũng
chỉ đưa ra một thang âm điệu Nam hơi ai, với đầy
đủ hai cung phụ.
Điều đặc biệt là có sự khác biệt
lớn đối với thang âm Không
hiểu sự non, già của thang âm này là so với thang âm
đều (bình quân) hay so với thang âm Ai trong công trình "Tìm
hiểu thang âm của một số bài bản thuộc
điệu Xuân, Ai, Oán" của Vũ Nhật Thăng
(sđd) thì chỉ trùng hợp bậc Xự già (203, 910 cent)
còn bậc Xang thì bao giờ
cũng già và Cống bao
giờ cũng non so với thang âm Xuân (Bậc Cống ở thang âm Xuân là
867,970 cent, ở thang âm Ai thì chỉ có 857,143 cent, trong khi
ở thang bình quân, bậc này - bậc VI, tương
ứng với âm La, là 900
cent). Hiện tượng bậc Cống già trên lý thuyết cũng như trong
thực tế chúng tôi chưa tìm thấy. Có thể đó là
hệ quả của sự chuyển
bậc hò chăng? Hò Đô
chuyển qua Hò Sol chẳng
hạn. Cách phân
chia thứ hai, chia theo nhóm bài bản chính được
biểu thị theo kiểu sơ đồ tuyến tính
để chỉ sắc thái từ buồn đến vui,
tối đến sáng.
Cách phân
chia này chỉ nêu lên một loại hơi tiêu biểu duy
nhất của điệu Theo
nghệ nhân Trần Thảo, trong Ca Huế thường
chỉ quen gọi là hơi. Có khi cũng gọi là Cung hay
Điệu. Hơi là các yếu tố diễn đạt
của chữ nhạc, làm cho bài nhạc trở thành
uyển chuyển, mềm mại mang tính đặc
trưng của mỗi vùng, miền. Vì vậy, Hơi ca -
Đàn Huế được chia thành hai hệ thống
gồm Hơi Khách và Hơi nam. Thang âm
Hơi Khách gồm 7 bậc: Hò, Xự, Y, Xàng, Xê, Cống,
Phàn. Các bậc ở bát độ trở lên, chúng có tên khác
là: Liu,U. Hơi Thang âm
Hơi Hò, Xự non,
Xàng, Xê, Cống non... Như
vậy, Xự và Cống trong thang âm Khách thường già
hơn Xự và Cống trong thang âm Nam, Xự và Cống
thang âm Khách luôn phải rung (Già), trở thành trong
sáng...Ngược lại Hơi Nam Xự non và Cống non nên
nghe tối, hơn nữa, khi sử dụng, Nghệ nhân
rung hai bậc: Hò và Xang. Chính những yếu tố cơ
bản này tạo thành Hơi Hai bậc Xự và Cống
luôn được Nghệ nhân rung khi Đàn cũng như
Ca nên có sự chuyển động lớn, làm cho giai
điệu bài nhạc trở nên trong sáng, tươi vui.
Hai bậc: Xự già và Cống già là bậc cơ bản
làm nên Hơi Khách. Các bậc còn lại cao độ luôn
cố định, đôi khi Nghệ nhân sử dụng âm
lướt, âm thêu, âm luyến cho hai bậc Y và Phàn. Hai bậc Xự và Cống
luôn hòa quyện cùng các bậc, có khi tách ra rõ ràng. Và một
đặc điểm quan trọng khác, khi Đàn hoặc
Ca, các Nghệ nhân thường rung sâu, chậm hơn so
với Hơi Khách nhạc Tuồng, Hơi Bắc nhạc
Tài tử Cải lương Điệu và hơi trong ca đàn Huế là vấn đề
phức tạp đòi hỏi sự nghiên cứu thấu
đáo, nghiêm túc về âm nhạc học. Trong chuyên
đề này, chúng tôi chưa có điều kiện nghiên
cứu sâu nên đây chỉ là sự tìm hiểu bước
đầu có tính chất sơ lược, liên quan
đến thang âm điệu thức trong Ca - đàn
Huế, vốn cũng là ngôn ngữ âm nhạc chung trong âm
nhạc cổ truyền Xứ Huế. Tài liệu tham khảo 1.
Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút, bản dịch
của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, NXB Văn
Nghệ TP.HCM, 1989. 2.
Trần Văn Khê, La musique vietnamienne traditionnelle, PUF, 3. Lê
Mạnh Thát, Lịch sử âm nhạc Việt 4. Lê
Văn Chưởng, Dân ca Việt Nam- những thành tố
của chỉnh thể nguyên hợp, NXB Khoa Học Xã
Hội, Hà Nội, 2004 . 5. Lê
Văn Hảo, Một vốn quý trong kho tàng âm nhạc
Việt 6. Lê Yên,
Những vấn đề cơ bản trong âm nhạc
Tuồng, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội 1994 7. Vũ
Nhật Thăng, Tìm hiểu thang âm của một số bài
bản thuộc các điệu Xuân, Ai, Oán, Tạp chí Nghiên
cứu nghệ thuật số 3 - 1987 8. Nguyễn
Trọng Tạo - Việt Đức, Tính đặc
sắc của âm nhạc truyền thống Huế. Tập
san Văn hóa - Thông tin, Sở VHTT Thừa Thiên - Huế. Tháng
3 - 1995. 9. Thái Văn Kiểm, Cố
đô Huế, Nhà in Bình Minh, Sài Gòn 1960. 10. Thụy
Loan, Lược sử âm nhạc Việt 11. Minh
Lương, Tìm hiểu âm giai ngũ cung, Sài Gòn, 1968, bản
ronéo. 12.
Văn Thanh, Tìm hiểu ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên,
Sở Văn hóa-thông tin Bình Trị Thiên, 1989. 13. Tôn
Thất Bình, Dân ca Bình Trị Thiên, NXB Thuận Hóa, Huế,
1997. 14.
Trần Văn Khê, Vài ý kiến về thất cung thiên nhiên
và comma, Nghiên Cứu Việt 15.
Vĩnh Phan, Hơi nhạc cổ truyền Huế, Nghiên
Cứu Việt Nam, Huế, số 1 mùa xuân 1966. 16.
Vĩnh Phúc, Âm nhạc cổ truyền Việt 16.
Trần Văn Khê, Phong cách tán tụng trong Phật giáo
Việt Nam, báo Giác Ngộ, TP.HCM, số 59 năm 2001. 17. Lê
Văn Hảo, Góp phần tìm hiểu ca nhạc Huế,
Văn Nghệ Bình Trị Thiên, số 9, 1977 18. Lê
Văn Cần, Ý kiến về ca nhạc Huế, ghi chép
riêng. 19. Phạm
Minh Khang, Thang âm điệu thức trong âm nhạc
truyền thống Việt 20.
Dương Bích Hà, Lý Huế, NXB Âm nhạc năm 1999. [1] Tính chất "đúng" tạm
hiểu theo hệ thống thang âm bình quân. Thực chất
đây là quãng 5 đúng tự nhiên, lớn hơn quãng 5
đúng bình quân 1,955 cent (Vũ Nhật Thăng). [2] Các quãng trung tính chúng tôi tạm
thời ký hiệu bằng số 0: q20, q30,
q40... [3] - Thang âm đều, đều
đặn: các bậc hoàn toàn đều nhau trong thang bình
quân (tempérament égal) -
Thang âm không đều: thang "điều hòa", các
bậc không hoàn toàn bằng nhau (tempérament). [4] Tạp chí Nghiên cứu nghệ
thuật số 3 - 1987 [5] Từ của Phạm Đình
Hổ trong Vũ trung tùy bút.
(Trần Văn Khê dịch qua tiếng Pháp: 5 Degrés et 7 sons). [6]
Xin lưu ý: Chúng tôi gọi: "thang âm đều" là nói
đến sự đều đặn của thang âm bình
quân (đã chú thích) khác với khái niệm thang âm 7 bậc
chia đều. [7] Nguyễn Trọng Tạo -
Việt Đức. Tính
đặc sắc của âm nhạc truyền thống
Huế. Tập san Văn hóa - Thông tin, Sở VHTT Thừa
Thiên - Huế. Tháng 3 - 1995. [8] Trích dịch trong Nhạc Ký, Kinh
Lễ Ký. Dẫn lại của Thái Văn Kiểm trong Cố đô Huế. Nhà in Bình
Minh, Sài Gòn 1960. [9]
Theo Thụy Loan. Lược sử âm nhạc Việt [10] Theo Thái Văn Kiểm - Sđd. [11]
Theo Thái Văn Kiểm - Sđd. [12] Theo Lê Yên. Những vấn đề cơ
bản trong âm nhạc Tuồng (Sđd). [13] Theo Lê Văn Hảo. Một
vốn quý trong kho tàng âm nhạc Việt |