Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]          [ Trang chủ ]             [  Tác giả ]

THÍNH BIÊN HỒNG 
của Bạch Cư Dị 

Thu Tứ

Nguyên văn
Dịch nghĩa
Dịch ra thơ lục bát
- Tản Đà
- Anh Nguyên
- Thu Tứ
*
Biên mai là một loại sò có "còi" rất ngon ngọt, thính là... thính, "thính biên hồng" phải chăng một đặc sản biển cao cấp? Còn "tái hồng quần" phải chăng món tái quần đỏ?!

Hóa ra "hồng" đây là con ngỗng trời:

"Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?"(1)

Hồng hay cặp kè với "nhạn":

"Thấy chim hồng nhạn bay đi..."(2)

Nhạn cũng là ngỗng trời.(3)

Hồng, nhạn đều là ngỗng (trời), nhưng thay bằng "ngỗng" thì "tan hoang tinh thể" câu hát trên.(4) Cũng tan hoang luôn câu thơ Hàn Mặc Tử:

"Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông ngỗng về..."!(5)

Khi nào ngỗng khi nào hồng, cả một cân nhắc thơ...

Còn cớ sao Bạch Cư Dị hỏi Chiêu Quân và Tô Vũ có nghe ngỗng kêu chăng?

Chẳng qua ngỗng trời là loài chim thiên di. Hàng năm nó "di" từ bắc xuống nam để tránh rét. Chim bay thoải mái, còn người đẹp đi làm vợ chúa Hung Nô với ông quan đi sứ bị chúa Hung Nô bắt ở lại chăn dê thì muốn bay lắm mà đâu có được. Hai lòng nhớ quê quằn quại nghe ngỗng kêu, ngẩng lên thấy, ước ao mình cũng có cánh!

Nguyên văn

Thính biên hồng

Kinh phong xuy khởi tái hồng quần
Bán nhập bình sa, bán nhập vân
Vị vấn Chiêu Quân nguyệt hạ thính
Hà như Tô Vũ tuyết trung văn?

Dịch nghĩa

Nghe ngỗng trời ở biên giới
Gió to thổi làm bầy ngỗng trời đậu trên ải vùng bay
Nửa bầy bay xuống bãi cát, nửa bầy bay lên mây
Chiêu Quân nằm dưới trăng có lắng tai chăng?
Và Tô Vũ giữa tuyết có nghe chăng?

Dịch ra thơ lục bát

Tản Đà:

Đàn hồng rợn gió ngoài biên,
Nửa sa cát bể, nửa lên mây trời.
Chiêu Quân, Tô Vũ nghe chơi,
Dưới trăng, trong tuyết đôi nơi thế nào?

Anh Nguyên:

Ngoài biên gió nổi, hồng bay,
Nửa sa bãi cát, nửa mây lẫn vào.
Chiêu Quân nghe tiếng, nghĩ sao?
Và nơi biển tuyết, thế nào chàng Tô?...

Thu Tứ:

Gió lồng nhạn ải vùng bay
Lên mây xuống cát gọi bầy thảm thê
Dưới trăng ai đó có nghe
Núi băng ai có chợt tê tái lòng.

____________

(1) Trong bài Thu Vịnh của Nguyễn Khuyến.

(2) Hình như trong lời một bài ca Huế?

(3) Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh. Để ý "nhạn" trong tiếng Việt chỉ một loài chim khác: "thuộc bộ sẻ, đuôi dài chẻ đôi, mỏ ngắn, thường làm tổ trên hang đá" (theo Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1967).

(4) "Tan hoang tinh thể" là chữ của Bùi Giáng, trong Đi vào cõi thơ (1969).

(5) Nguyên văn: "Đăm đăm trông nhạn về" (bài Tình Quê).