Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]          [ Trang chủ ]             [  Tác giả ]

THƠ NHẠC, THƠ TRANH

Thu Tứ


Đằng êm tai, đằng đẹp... óc
Vài ví dụ:
- Dịch thơ Đường
- Dịch Chinh phụ ngâm khúc
- Truyện Kiều
- Cung oán ngâm khúc...
Hai đằng hơn kém thế nào?
*
Đằng êm tai, đằng đẹp... óc

Thơ làm bằng chữ.

Vì chữ có âm thanh nên thơ có thể có chất nhạc. Nhạc hay không, nhạc nhiều nhạc ít, tùy đặc tính của thứ tiếng được dùng để làm thơ và tùy luật của thể thơ.

Vì hầu hết chữ có nghĩa nên thơ có thể có chất họa. Đây chữ "núi" kia chữ "chim" nọ chữ "thuyền" chữ "ông chài" chữ "nón lá", "áo tơi"... Sắp thế nào đấy, nên tranh thủy mạc chứ chẳng bỡn! Tất nhiên là tranh trong óc thôi.

So tiếng Việt với tiếng Tàu.

Tản Đà có lần bảo: "Chữ quốc ngữ của ta, âm và vận so với chữ nước khác, hãy nói như chữ Tàu, thì rất là giàu đủ và tách bạch hơn".(1) Từ vựng thế, ngữ pháp lại cực kỳ linh động, trách nào tiếng Việt nghe đặc biệt êm tai. Cái lối ta dùng những hư tự và chữ đứng trước, chẳng hạn, có thể làm tăng nhạc tính của câu thật đáng kể.(2)

So luật thơ Việt với luật thơ Tàu.

Thơ Việt truyền thống có hai thể căn bản là thể sáu tám và thể ngâm (tức bảy bảy sáu tám). Luật của cả hai thể đều là luật về âm và vận mà thôi, không hề đặt ra ràng buộc nào về ý. Luật thơ Việt hoàn toàn nhằm tạo hiệu quả nhạc.

Thơ Tàu điển hình là thơ Đường luật. Luật Đường trước tiên qui định cách sắp xếp ý trong một bài thơ (dài chỉ tám hoặc bốn câu!). Cũng có qui định về âm thanh, nhưng đòi hỏi tổ chức ý quá chặt chẽ làm cho rất khó tạo nhạc. Tức luật thơ đây cơ bản giống như một thứ họa pháp để vẽ tranh (tưởng tượng) bằng chữ!

Tiếng khác tiếng, luật thơ khác luật thơ, kết quả là:

Thơ Việt như nhạc, thơ Tàu như tranh.

Thời tiền chiến, Thùy Thiên khóc nhầm bạn Tản Đà (vì tưởng thi sĩ đã từ trần), trong bài thơ điếu người chưa chết có câu "ca":

"Văn chương đâu khéo ly kỳ,
Đọc lên sướng miệng, nghe thì sướng tai!".

Đấy, thơ Việt mà hay thì thế đấy.

Dĩ nhiên cái sướng nó không ngừng ở tai. Từ tai nó vào lòng.

Nghệ thuật thơ Việt Nam dùng nhạc để gợi lên trong lòng người nghe cả một trời cảm xúc!

Trong khi chắc không tình cờ mà người Tàu xưa nay không trầm trồ bài thơ Đường nào là "thi trung hữu nhạc" cả (thực ra tuy hiếm vẫn có, như bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế). Chỉ nghe truyền tụng lời Tô Đông Pha trầm trồ: "Đọc thơ Ma Cật thấy trong thơ có họa".

Riêng gì thơ Vương Duy, Đường thi cơ bản là những bức tranh thủy mạc vẽ bằng chữ, nhiều bức đẹp... óc ra phết.

Vài ví dụ

Dịch thơ Đường

Đây đôi bức tranh Tàu chuyển thành khúc nhạc Việt quen thuộc:

"Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
(...)
Chuyển trục tỳ bà tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình
(...)
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất tằng tương thức
(...)
Tựu trung khấp hạ thùy tối đa?
Giang Châu tư mã thanh sam thấp." (Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị)

"Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách điøu hiu
(...)
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc, tình đà thoảng hay
(...)
Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
(...)
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh." (Phan Huy Vịnh dịch)

"Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu." (Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu)

"Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai." (Tản Đà dịch)

Dịch Chinh phụ ngâm khúc

Hoàng Xuân Hãn nhận xét:

"Cái hay (của bản dịch) một phần, bởi tình ý thiết tha, hình ảnh rực rỡ (trong nguyên văn), và một phần lớn, vì từ điệu gọn gàng, nhịp nhàng và bóng bẩy".(3)

Tức Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích đã đem tranh đẹp phổ thành nhạc du dương!

Văn nhân xưa rất biết việc miønh làm, vì sau khi dịch xong có lời kể: "từng thiên, từng chương (...) tìm âm thanh cho êm ái (...) phiên dịch thành khúc mới".(4)

"Khúc mới" chính là một khúc nhạc, một bài ca. Cho nên mới gọi Chinh phụ ngâm khúc diễn ca!

Đây hai câu đầu của Đặng Trần Côn:

"Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân".

Và đây hai câu ấy sau khi dịch:

"Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên".

"Tranh" lối Tàu tám chữ vẽ một người đàn bà đẹp quay cuồng giữa trời đất đầy gió bụi. "Nhạc" Việt hai câu ca lên cái hình ảnh ấy!

(Nguyên tác Chinh phụ làm theo thể trường đoản câu ngắn câu dài. Câu ngắn như trên người dịch thêm chữ, còn câu dài thì bớt chữ, nhờ hết sức dạn tay thêm, bớt, sửa sang, đảo lộn, mà tranh mới thành được nhạc.)

Truyện Kiều

Thi phẩm bất hủ của Nguyễn Du:

Theo Xuân Diệu, "là một bản nhạc dài".(5)

Theo Hoài Thanh, như "một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung".(6)

Một tài thơ lớn và một tài thưởng thơ lớn, cả hai hậu sinh sáng giá đều thấy điều đáng nhắc nhất về Kiều là chất nhạc quán xuyến và độc đáo.

Thì chính Nguyễn Du đã gọi tác phẩm mình là "Đoạn trường tân thanh". Cụ xem tranh dâu bể của người Tàu, cảm khái, khóc một hơi thành nhạc "động đất trời", "nghe như non nước vọng lời nghiøn thu"(7), chứ cụ có ngồi hì hục vẽ bức tranh khác đâu!

Cung oán ngâm khúc...

Dĩ nhiên đâu phải chỉ khi đọc thơ tranh hay tiểu thuyết của người Tàu, ta mới có hứng sáng tác thơ nhạc. Người Việt bình dân quanh năm suốt tháng "ca" thành "dao" đủ thứ "tranh". Người Việt trí thức hay ngâm nga khi ngẫm nghĩ về tranh "tuồng đời", "kiếp người":

"Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng nám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê

(...)

Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này

Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nắm cổ khâu xanh rì." (Cung oán ngâm khúc)

và khi ngắm nghía tranh thật của Tạo hóa:

"Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá đá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta." (Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan)

Dù chứa nhiều chữ Tàu như Cung oán hay làm theo luật Tàu như thơ Bà Huyện, thì "thơ ca" của ta bao giờ cũng vẫn giàu chất nhạc hơn hẳn "thơ họa" của Tàu!

Hai đằng hơn kém thế nào?

Tản Đà có lần phát biểu:

"Quốc văn ta có những đặc điểm có thể làm cho thơ ca (...) hay hơn thơ ca của nước ngoài".(8)

"Nước ngoài" đây là kể cả nước Tàu!

Cụ nghĩ thế, liệu có đúng không?

Thiết tưởng nếu xem thơ là một thứ nghệ phẩm làm bằng tiếng nói thì làm thơ như người Việt Nam mới là đi đến chỗ tận cùng của quá trình sáng tạo. Người Tàu chọn và sắp xếp tứ thành "phong cảnh" nên thơ nhưng như thế chưa xong việc, vì phong cảnh chưa phải là thơ.

Đọc

"Bất túy Tầm Dương tửu
Yên ba sầu sát nhân",

óc ta tưởng tượng một hình ảnh, rồi lòng ta nẩy sinh một cảm xúc, rồi cũng vẫn lòng ta bật lên một lời thơ chứa nhạc chở thẳng cái cảm xúc ấy vào lòng người nghe:

"Chẳng say chén rượu Tầm Dương
Khỏi sao sóng, khói sầu thương chết người".

Thơ tới đích hay chưa là ở chỗ có chở thẳng được cảm xúc từ lòng này sang lòng kia hay không.

Thơ Việt nhiều bài tới đích. Thơ Tàu ít bài tới đích.

Thế là dám chê thơ Đường lừng danh thế giới à? Nghĩ thế nào nói thế ấy thôi. Còn danh kia sở dĩ lừng, ấy một phần bởi nước Tàu "lớn" hơn nước ta nhiều, phần nữa bởi thơ tranh dễ chia xẻ hơn hẳn thơ nhạc (vì tứ có thể dịch cho người ở bất cứ đâu cũng hiểu được, chứ nhạc thiø dịch làm sao!).
 

___________

(1) Tản Đà, "Mối cảm tưởng về thơ ca của nước ta", đăng trên An Nam tạp chí năm 1932, in lại trong Tuyển tập Tản Đà, nxb. Hội Nhà Văn, VN, 2002.

(2) Hư tự ví dụ chữ "cho" trong "Bao giờ cho đến tháng mười". Chữ đứng trước thiø chẳng hạn chữ "cơn" trong "Thuở trời đất nổi cơn gió bụi".

(3) Hoàng Xuân Hãn, Chinh phụ ngâm bị khảo, nxb. Minh Tân, Pháp, 1953.

(4) Xem trên.

(5) Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, nxb. Văn Học, VN, 1987.

(6) Tuyển tập Hoài Thanh, tập II, nxb. Văn Học, VN, 1982, tr. 116.

(7) Thơ Tố Hữu về Truyện Kiều: "Tiếng thơ ai động đất trời, nghe như non nước vọng lời nghiøn thu".

(8) TĐ, sđd.