|
|
***
Dẫn nhập: Thi trung hữu quỷ, lóng ngóng thế nào chẳng
biết nữa người viết vớ được bài thơ trên, vì hai chữ “nam, bắc” nên nhẩm chừng
tác giả là người ở trong nước, để rồi ý thơ khi không như ma nhập vào bài tản
bút này với những tư liệu mà người viết có được. Như những sử gia miền Bắc,
tìm về nguồn gốc tộc Việt với chữ “lạc”. Ngòai nghĩa là lúa nước, còn có
nghĩa khác là con chim. Giống chim này chỉ bên Tầu mới có, chẳng ai biết là
chim gì? Trong văn đàn bảo giám ở Thăng Long nghìn năm văn vật, có ý ngờ rằng
nó chân cao, mỏ dài, vì vậy mới có chuyện chim lạc là chim hạc…”rành rành”
trên trống đồng Ngọc Lũ.
Một sử gia miền
“Nguyên nhân gì bà Âu Cơ lại đẻ
ra trứng…”, có một nhà bác cổ ở ngoài nước đã vật vã với luận thuyết, với
cái trứng, khi có chứng tích ắt có nguyên ủy…Nên ông giải bầy, rằng ông học
Nam sử bằng chữ Nho từ tấm bé, bỏ tiền túi sang tận bên Tầu dăm bận mười bữa.
Lò mò lên núi Ngũ Lĩnh, xuống tận Động Đình hồ có con sông Tương và tìm ra một
nhánh sông tên Âu Giang. Ở đây có một giống chim, rõ ra không phải…chim lạc
mà là chim…”hải âu”. Thế là chuyện
ông Lạc Long quân và bà “Âu” Cơ đã
được giải mã, chim là phải đẻ ra…trứng. Vậy mà thiên địa tù mù chẳng ai hay
gì ráo, ngòai ông.
Vẫn chưa xong, thêm một nhà bác vật, gốc gác là lang Tây, nên ông viết
rất thử nghiệm, rất bệnh lý: “Để hiểu
rõ cổ sử Việt ta, hãy đi tìm mã số DNA hay mã số di truyền học (genetic code)
của vua Hùng vương. Muốn thế ta phải dựa vào bản thể của tế bào gốc của Tổ
Hùng, tức là ta phải dựa vào tế bào cuống nhau, tế bào màng nhau, tế bào bọc
con của vua Hùng vương. Mẹ của
vua Hùng là U cò tức con cò gió, cò lả, cò lang. Cò lang tức cò trắng vì “lang” là trắng
như bị chứng lang da (chứng vitiligo). Ứng với Lang Hùng vương đóng đô ở Bạch
Hạc tức cò trắng là kinh đô của nước Văn Lang. Nên con cháu Hùng Vương mới
mang hình ảnh “Cái cò lặn lội bờ ao - Phất phơ hai dải yếm đào gió bay”.
Thôi thì cứ để hai dải yếm đào, phất phơ một chút, xin trở về với phần
“dẫn nhập”. Người viết vốn dĩ là người hòai cổ, đang thả hồn quan san, quan
hòai lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương. Dẫu rằng “lối
xưa xe ngựa” chỉ là những bước chân đi của các sử quan, thế nhưng như sử gia
Fustel de Coulanges viết: “Sự thật
của lịch sử là gì? Sự thật của lịch sử là một quả cầu tròn, mỗi người chỉ
nhìn được một phiá…”. Giống con vạc ăn đêm, người viết chỉ nhìn được một
phía…, nên chẳng thể thẩm định là đúng hay sai với…”chim vạc là chim cò”. Rồi với hơn 4000 năm văn hiến, gấp lại mươi
trang giấy này, bạn đọc và người viết đều
”khật khờ” thấy rõ từ chính sử đến huyền sử… *** Viết về “sử quan” thì chẳng thể không nhắc
đế ải quan bằng
vào những bước…quan san ngược dòng thời gian vào năm 1837, tác giả Tsai Tin
Lang từ Quảng Đông sang nước ta bằng đường biển, rồi bị đắm thuyền ở đâu đó.
Ông trở về quê nhà bằng đường bộ qua ngả Quảng Tây, từ Hà Nội lên Đồng Đăng,
và gặp…ải Nam Quan.
Nên mới có bài bút ký như thế này đây: Ngày 15 tháng 3 ông rời Hà Nội đi Bắc Ninh,
sau khi qua 7 trạm có quan quân gác. Ngày 19 ngủ đêm ở phủ Văn Lang, sáng hôm
sau đi được khỏang 13 lý (khỏang 7 cây số) nữa thì găp Quỷ Môn quan. Qua đến
ngày 20, ông dừng chân ở pháo tháp thứ 5, ngày xưa vào thế kỷ 18, triều Lê đã
dựng lên 18 pháo tháp này để trông chừng nhà Tây Sơn (?). Nhưng nay chỉ còn
pháo tháp thứ 3 và thứ 5.
Ngày 21 ông đến Lạng Sơn vào lúc sế trưa và chơi ở đây mấy hôm và có
thăm chợ Kỳ Lừa và ông thấy thương buôn tòan người Quảng Tây qua đây buôn
bán. Ngày 3 tháng 4 ông đến Đồng Đăng, nghỉ một đêm, 8 giờ sáng hôm sau tiếp
tục hướng về phía ải Nam Quan. Đường đi gặp núi đá hiểm trở, vực thẳm tối
tăm, cây cối um tùm rậm rạp, không dấu vết con người, ngòai những con công và
trăn, rắn. Đường mỗi lúc một hẹp và ông đi được 35 lý (20 cây số) là tới ải Nam
Quan. Theo như ông tả gọi là “cổng” Nam Quan thì đúng hơn vì chỉ là bức tường
núi dựng đứng.
Và chuyện Tầu không có…”hậu” là láo ngáo thế nào ải quan không cho ông…”nhập
quan” vì họ ngỡ rằng ông không phải là…người Tầu. Vì vậy ông trở thành…”khách
trú” với bên bờ đôi ngả, ông viết bút ký “Itinéraire de Ha Noi à Canton par
Lang Son”, hiện còn tàng trữ tại Viện Đông Phương Bác Cổ. (Hình ảnh “Trấn
Nhích thời gian thêm một chút nữa với nửa thế kỷ sau cùng
biên bản phân giới của Công Ước Thiên Tân giữa người Pháp và Lý Hồng Chương:
Vì “La Porte de Chine” hay “Cổng Tầu” nằm trong một khe núi cạn nên cần phải
rời tới một khỏang đất rộng rãi hơn. Thế nên ải Nam Quan cũ đã bị tướng
Negrier trong ủy ban phân định biên giới Pháp-Hoa, giật sập từ năm 1884 để
xây cổng mới ở một địa điểm khác. Cổng mới được xây bằng đá đẽo (pièrre de
taille), cao hai tầng,
hành lang và cột kèo xây theo kiểu Pháp. Theo tài liệu này, biên giới bàn thảo
mất 3 năm mới xong và có một chi tiết là ải cách cái cột mốc số 18 về phía
nam đúng…100 thước Tây.
Cổng mới, tùy theo địa phương, người Trung Hoa gọi là Đại (Theo sử liệu Trung Hoa, cụm nhà nhỏ phía trước cổng
lớn (nơi có hai người Pháp áo trắng đang đứng) là miếu thờ Quan Công gọi là
Quan Đế Miếu và Đền Chiêu Trung. Sau đó vào năm 1896 trong chương trình khảo
sát biên giới giữa Trung-Pháp đã xây trên nền này một văn phòng quản lý. Năm
1914 xây lại lần hai tầng kiến trúc nhà lầu kiểu Pháp nên còn gọi là “Pháp
Lầu” hoặc “Pháp Quốc Lầu” vẫn còn tồn tại cho đến nay). Tuy nhiên nhờ Công Ước Thiên Tân, kèm
theo văn bản tập Đại Thanh nhất thống
chí của nhà Thanh, quyển 365 tờ 17 thì: “Cổng cũ được gọi là Pha Lũy Dich, có từ đời nhà
Nguyên 1579. Ải có bức tường dài 1190 bộ (khỏang 377 thước) để phân chia hai
nước, cách cổng 40 lý (20 cây số) về phía nam là trạm Đồng Đăng. Trạm này sứ
thần người An Nam, cứ 2 năm một lần chuẩn bị đồ tế cống nước ta” (Chỉ vì
vua Lê Lợi, lạng quạng thế nào mà lỡ tay chém văng đầu Liễu Thăng ở ải Chi
Lăng. Nhà Minh đòi bồi thường ông tướng cụt đầu bắt cống nạp cứ hai năm bằng
vào hình nhân thế mạng là hai tượng người vàng ròng. Cho đến lúc gặp vía vua
Quang Trung phất phơ, lệ này mới được…xin niệm tình miễn thứ cho).
Trở lại với công ước Thiên Tân, qua miêu tả của ông Anute trong phái bộ
Pháp, ải cũ xa xưa chỉ là cái tường “biên giới” dựng chắn ngang một khe núi
sâu, hai bên là núi đá cao, gần đó có một con suối cạn. Cũng từ đoản văn của
ông Anute, người viết góp nhặt sỏi đá được là: Ải cách Đồng Đăng mấy chục cây
số. Người viết nhắm chừng ải “hiện thực” chẳng phải là…ải Gần hơn nữa, năm Kỷ Dậu, sứ thần Ngô Thì Nhậm
đã có tuổi, vậy mà phải còm cõi đi sứ ba lần qua nhà Thanh trong một năm dưới
thời vua Quang Trung đã làm một bài thơ tả ải Nam Quan. Trong đó có hai câu “Mai tuyết xâm nhân mấn dĩ ban” và “Giản thạch mãn trang du tử thác”, diễn
Nôm là “Tuyết bám người tóc đốm bạc – Đá suối đầy túi lãng tử”, phù hợp với
hình vẽ của ông sứ bộ người Pháp là ải quan nằm giữa khe núi và có suối. Người viết đóan mò ải nằm sâu trong nước Trung Hoa vì…có
tuyết. Nhưng chịu chết chẳng biết ải Nam Quan nằm ỏ bến bờ hiu quạnh nào, vì
vậy với người viết, ải quan vẫn chỉ là…huyền sử.
Cho đến một tối chong đèn đọc sách, như có túc duyên gặp được một giả
nhân. Nhưng ấy là chuyện sau. Nói cho ngay, ải quan trên chỉ là miếng trầu là
đầu câu chuyện cho…chính
sử
với những sử quan sau này, như ở dưới đây. *** Sử Quan: Việt Điện U Linh Tập.
(Theo Hòang Xuân Hãn, Lý
Tế Xuyên là quan Thủ Đại Tạng Kinh Trung Phẩm Phụng Ngự cuối đời nhà Lý. Đầu thế kỷ 14 nhà Trần, phụng lệnh vua, để
giữ hương hoả bất tuyệt, ghi chứng tích các vị thần qua đền miếu đền, khảo dị
qua Giao Châu Ký của Triệu Xương, Giao Châu Ký của Tăng Cổn và ngay cả Tam Quốc
Chí nữa. Qua chức vụ dài lê thê lướt thướt
ấy, như ông từ giữa đền, giữa u tịch cổ sơ, ông sưu tra tư liệu, đọc
và ghi lại trong Việt Điện U Minh tập với hậu ý mong trừ dâm thần, tà quái, yêu ma, vọng quỷ
trong dân gian).
Trong Việt Điện U Minh tập cuối đời Lý của Lý Tế Xuyên, vua Hùng
Vương, chỉ là nhân vật phụ trong truyện Sơn
Tinh, Thủy Tinh và dài không hơn một trang giấy. Có một nhà biên khảo,
thường là ông, nhưng đây là bà, văn phong rất gọn và trong sáng, mặc dù vua
Hùng chắc như đinh đóng cột chẳng là dâm thần, tà quái, yêu ma, vọng quỷ để
trừ khử. Nhưng dưới ngòi bút của bà, khi vua Hùng kén rể cho con gái bàn bạc với quan đại thần Lạc hầu thì chỉ là một ông vua nhu nhược và
rất ba phải. Qua đối thọai chỉ thấy “vua sợ”, “vua cả mừng”, “vua mừng lắm”
và “vua cho là phải”..v..v..
Có hai chữ đập chát vào mắt người
sau là Trần Thế Pháp, là “vua Hùng” và “Lạc hầu”.
Lĩnh (Vào thế kỷ 14 hay 15, người tới sau xuất
hiện gốc tích mù mờ, chẳng rõ thổ ngơi . Chỉ biết tên ông là Trần Thế Pháp,
ông này không phụng mệnh vua, chỉ vì bị va vào mắt hai chữ “vua Hùng”
– “Lạc hầu”
của Việt điện u linh tập để viết “Cội nguồn tộc Việt”. Ông chắp vá một số
truyện cổ tích ở vùng đất phía nam núi Ngù Lĩnh của Trung Hoa như Tài Quý Ký
hay Nam Hải cổ tích ký, để thành chuyện. Tuy nhiên lưu danh thiên cổ vẫn là
truyện…người lấy cá đẻ ra trăm trứng.
Đời Lê, cụ Vũ Quỳnh góp nhặt sỏi đá những truyện ấy thành tập và đặt
tên là Lĩnh
Tác giả là Trần Thế Pháp và cội nguồn tộc Việt của ông như thế này
đây:
Xưa cháu ba đời vua Thần Nông là Đế Minh, nhân tuần thú phương Nam rất
“dế mèn phiêu lưu ký”, Ngài đi với người con vợ cả là Đế Nghi, đi bằng gì, đi
năm nào, không thấy nói tới. Rồi đến núi Ngũ Lĩnh, gặp một nàng tiên sinh ra
Lộc Tục. Ngài phong cho con bà cả là
vua phương Bắc, con bà hai là vua phương
Một ngày “Bố ơi..” gặp nàng Âu Cơ ở một mình…Nguyên văn trong văn bản
tả thì “Bố ơi” thấy “ đẹp lạ
lùng, yêu quá, nên lấy làm vợ”. Giáp một năm, sinh ra bọc trứng và nở ra
trăm con. Chia đều làm hai, 50 theo mẹ lên núi, 50 theo Lạc Long quân trở về
thủy phủ, Âu Cơ lại nhắn gọi như gọi đò sang sông: “Bố ơi không về để mẹ con ta thương nhớ”. “Bố ơi” về thật
và nói: “Ta là rồng ở thủy tộc.
Nàng là giống tiên, ở trên đất. Thủy hỏa tương khắc khó mà ở cùng nhau”. Âu Cơ trở lại huyện
Bạch Hạc, phong cho con trưởng là Hùng vương, đặt tên nước là Văn Lang, truyền
được 18 đời vua Hùng và được gọi là thời Hồng Bàng. Quan văn, võ gọi là lạc hầu,
lạc tướng. Về bờ cõi của nước non thì đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc
tới Động Đình hồ, nam giáp Hồ Tôn. Từ “vua Hùng” và “lạc hầu” trong chuyện người
núi đánh nhau với người nước của Lý Thế Xuyên, ông Trần Thế Pháp đã huyền hoặc
ra Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Để sau này, của người phúc ta, tộc Việt ta là…”Con rồng cháu tiên”.
Nhưng rất tiếc:
“…Ấy là ông mượn truyện Liễu Nghi trong Đường Kỷ của Lý Triễu
thuộc đời Tống cùng niên kỷ với đời Trần về một thư sinh xuông thủy cung gặp công
chúa thủy tề và lấy nhau rồi cũng đẻ con. Rồi ông dàn dựng một nước Văn Lang,
trải rộng tới hồ Động Đình, để sau này cái nhọt nẩy cái ung, học giả cũng như
học thật, quại nhau như Sơn Tinh với Thủy Tinh...”
Đại Việt Sử Ký Tòan Thư
(Từ thời nhà Đinh, nhà Tiền
Lê đến nhà Lý nước ta gần như không có ai viết sử. Mãi đến đời Trần, và có thể
nói, sử quan nhiều nhất là ở thời này như Trần Phổ, Lê Văn Hưu, Phan Phu
Tiên, Lê Trắc và cuối đời Trần là Hồ Tôn Thốc. Để rồi sang đời Lê với Ngô Sĩ
Liên đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, sau cụ còn là Quốc Tử Giám tư nghiệp nên tên
cụ được khắc vào bia đá ở Văn Miếu. Tiếp đến là sử quan triều Lê, theo lệnh
vua, cụ
khảo dị qua Đại Việt Sử Ký của Lê văn Hưu và bộ Đại Việt Sử Ký Tục Biên của
Phan Phu Tiên để hòan thành bộ Đại Việt Sử Ký Tòan Thư vào năm 1479 Hồng Đức
thứ 10 thời vua Lê Thánh Tông. Cụ viết: “Trộm nghĩ may thịnh trị,
tự thẹn không chút báo đền, nên không tự nghĩ sức học kém cỏi, lấy hai bộ
sách của hai bậc tiền nhân trước đây và sửa sang lại. Thêm phần Ngọai kỷ”.
Đọc “Thêm phần Ngọai kỷ” đến
lộn tròng mắt mới thấy cụ đúng là sử quan chừng mực. Cụ viết: “ Vua lấy con gái Động Đình Quân là Thần
Long ”. Người đọc ráng hiểu
theo nghĩa đen là Kinh Dương Vương không lặn xuống ao, hồ để lấy công chúa hà
bá. Tiếp đến: “ Lạc
Long quân lấy Âu Cơ và đẻ ra trăm con trai ”.
May quá, không thấy đẻ ra…trứng và chia đều làm hai, 50 theo mẹ lên
núi, 50 theo bố.
Cụ còn cân nhắc không đưa đọan Âu Cơ…dâm lọan hai chồng như Trần Thế
Pháp buông lơi là Âu Cơ trước kia là vợ của Đế Lai, con của ông bác ruột, tức
anh họ của Lạc Long Quân. Ông anh họ chu du khắp thiên hạ ham vui quá quên cả
ngày về. Ở nhà, ông em họ thấy Âu Cơ “dung mạo đẹp lạ lùng” và “yêu quá”.
Nàng cũng thấy “chàng
nhi lang phong tú nên phải lòng ưng theo”. Trong phàm lệ, cụ ghi:
“Cứ theo sự ghi chép ấy
thì Kinh Dương Vương là em ruột Đế Nghi, thế mà kết hôn với nhau, có lẽ đời ấy
còn hoang sơ, lễ nhạc chưa đặt mà như thế chăng?”.
Cụ làm ngơ một đọan trong Lĩnh
“…giáp một năm, sinh ra một
bọc trứng, Âu Cơ cho là điềm không hay, nên đem vất bỏ ngòai đồng nội, hơn bẩy
ngày sau, trong bọc nở ra một trăm trứng…” Để có một sử gia nhắn
nhủ: “Có lẽ là do ít ai để ý đến, nên không nhận ra những hạt sạn nhỏ
nhặt. Hoặc nhiều người đã nhận ra rồi mà cho là nhỏ nên không bận tâm
chăng..”
Riêng về phần bản địa, cụ như Trần Thế Pháp, cũng lan rộng tới Động
Đình Hồ. Không thấy nói tới tên 18 đời vua Hùng Vương, ngay cả người con của
vua Hùng lập nên nước Văn Lang, cụ cũng ghi chú là “khuyết húy”. Cụ tiếp với phần Ngọai
kỷ: “Thảng có hay hoặc dở, nhưng may ra cũng có
thể giúp ích phần nào cho việc tra cứu tìm hiểu đời sau”. ***
Thế là 300 năm đời sau, kẻ hậu sinh như ếch vồ hoa mướp, nhẩy nhổm vào
“tra cứu với tìm hiểu” lọan cào cào
châu chấu, thế mới phiền, thưa bạn đọc. Thì hãy mầy mò với…
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục
Bộ sử trên do quốc sử quán triều Nguyễn biên sọan, với họ Hồng Bàng,
các sử quan…đắn đo bắt đầu bằng hai chữ “tương truyền” và gần như sao bản lại y như trong sử nhà Lê 300 năm
trước với câu đính kèm “Nhưng hẵng cứ chép lại để
truyền nghi” .
Riêng chuyện bà Âu cơ đẻ ra 100 con trai, vua Tự Đức phê: “Kinh thi có câu tắc
bách tư nam, đó là lời chúc tụng cho nhiều con trai đấy thôi. Xét đến sự thực
cũng chưa đến số ấy. Huống chi lại nói đếm trăm trứng! Nếu quả vậy thì khác
gì chim muông, sao khác gì lòai người được”.
Còn địa giới nước Văn Lang, bộ Khâm
Sử có phần cẩn án:
“Địa giới nước ta từ đời
Trần về trước, phía đông giáp biển, phía tây giáp Vân Nam, phía bắc giáp Quảng
Tây, phía nam giáp Chiêm Thành. Vậy mà sử đời Lê chép tới động Đình hồ thì quả
thực bờ cõi quá rộng rãi, chưa đời nào được như thế. Theo sách Đại
Đời Lê, các nhà biên khảo, học giả chưa kịp “tra cứu, tìm hiểu” đã qua đời Nguyễn, họ lại có dịp rôm rả với Lạc
Việt, vua Hùng và nước Sở. Để quên béng nhời dặn dò của cụ Ngô Sĩ Liên: “Nước ta thiếu sử sách biên khảo, mà đều do
truyền văn. Sao chép có phần quái đản, phiền tạp, chỉ làm lọan mắt”.
Mà quả tình có “lọan mắt - phiền
tạp - quái đản” thật, như ở dưới đây.
Lạc Việt: Tên gọi Bách Việt xuất hiện đầu tiên trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, ông kê cứu theo
sách Lộ Sử của La Tất, với nhóm man
di trồng lúa nước, mà người Trung Hoa
gọi là…”lạc”. Từ chữ lạc có Lạc Việt để có lạc vương, lạc hầu, lạc tướng. Với
chủng Bách Việt thì “bách” đây không có nghĩa là “một trăm” mà có nghĩa là
“không đếm được”. Thơ thẩn một cõi thì như Nguyễn Bính với “Mình đi trăm núi
nghìn sông - Ngờ đâu mang cả lạnh lùng sang
Vua Hùng - Nước Sở: Vào thế kỷ thứ 5, trong Giao Châu ngọai vực ký, Thẩm Hòai Viễn
thấy chữ “Lạc” giống với chữ “Hùng” nên gọi Lạc Vương là…Hùng Vương.
Chưa xong, tiếp đến là Tư Mã Thiên viết:
“Đời nhà Chu, có người nước Sở
họ Mị mà “mị” nghĩa là “con gấu”. Tiếng
Hán gọi con gấu là “hùng”. Nên được vua nhà
Nay người đi sau với vua Hùng của Trần Thế Pháp cùng 20 đời vua Hùng
nước Sở, đã
dàn dựng họ Hồng Bàng như Hùng Hi, Hùng Tạo, Hùng Vĩ… Họ lặn lội tìm tòi cho
bằng được đầy đủ tên và niên đại của 18 đời vua này, không sót một vị vua
nào. May mắn thay, trong tay người viết có tới 3 (ba) bản gia phả…khác nhau. Lọan mắt hơn nữa là trong đó có một bản,
nếu tính theo tuổi thọ thì mỗi vị vua Hùng Vương ta trung bình là…145 năm, để
chẳng thấy “đầu Ngô mình Sở” tí nào.
Và rồi lại phiền tạp thêm với…
Nước Sở - Nước Việt: Chuyện lạc đường vào lịch sử với thời lập
quốc, nước ta có tên là…”Nam Việt”. Rằng là đời vua Hùng Vương thứ 18, các sử
quan xưa như Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên dựng sử nước “Nam Việt
ta” như sau:
“Nhà Tần lấy Giao Chỉ làm Tượng Quận, đế khi Tần lọan, Triệu Đà dấy
binh đánh lấy hết các quận quốc rồi xưng đế. Đến thế kỷ 20, theo Lịch Sử Việt Nam và Việt Nam Sử Lược của Đào Duy Anh với
Trần Trọng Kim, thì thời Sở xâm lấn nước
Việt cũ của Câu Tiễn, dân Việt ấy “có thể” di cư xuống đồng bằng sông Hồng.
Từ truyện trên, sau này các nhà biên khảo, học gỉa nhận bá vơ, bằng cách này
hay cách khác, tất cả Việt Câu Tiễn, Nam Việt Triệu Đà được vơ đũa cả nắm là
Việt ta.
Quái đản hơn nữa…
Gần đây, qúy vị này còn đèo bòng từ trên xuống dưới là vua Thần Nông,
cho đến Lão Tử, ngay cả Tây Thi, Phạm Thái…“có khả năng” là người Việt ta tuốt.
Một sử gia tân đương đại đã giận lẫy những vị trên như sau: “Họ có thói quen lười nhắc, lặp lại lời kẻ
khác. Nói nghiêm chỉnh hơn, đó là do tác động đến tận tiềm thức của thành kiến,
để nô lệ một cách vô thức. Họ trích dẫn chủ quan sai lạc từ các sự kiện trong
sách sử từ xưa tới nay để viết về về sử Việt
Vẽ rết thêm chân thì người viết mạo muội thuật một chuyện cũng nhì nhằng
với đất đai và ải Nam Quan. Chuyện là năm 1802, chúa Nguyễn Ánh, chẳng là lúc
ấy chửa được chính danh làm vua, thống nhất bờ cõi xong, bèn sai sứ thần qua
Tầu xin sắc phong là Gia Long và quốc hiệu nước nhà là…Nam Việt. Vua Càn Long
nghe xong táng đởm kinh hồn vì ngại hồn ma bóng quế cái tên Nam Việt thời Triệu
Đà dấy binh làm lọan cũng phiền tóai cho…hậu sự không phải là ít. Nên nại cớ
tiếng Tầu đọc từ phải sang trái, thế nên đổi lộn ngược lại là Việt
Hóa ra vua Càn Long cũng tèng beng téc béc về sử học và không hay rằng
vào thời Lê Trịnh, sử quan Ngô Thì Sĩ có cẩn án trong Việt Sử Tiêu Án là sử quan Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên
đều sai vì rằng:
“Triệu Đà chỉ mới ngừng chân ở Quảng Đông, Quảng Tây, chưa đặt chân đến
đồng bằng sông Hồng. Mà nước Nam Việt ấy ở bên Tầu, miền Nam Hải, Quế Lâm. Do
vậy, trong sử
Đọc lại dăm pho sử - Nối
tiếp nhau viết sai - Sai từ đầu thượng cổ” ắt hẳn là như thế?. ***
Một ngày tôi (gia dĩ là người viết tạp bút này) thửa được quyển Sử Việt, đọc một quyển của sử gia tân đương đại than rằng các sử
gia chỉ chép sử qua một quyển sách gối đầu giường là…quyển Đại Việt Sử ký tòan Thư. Ngay trang đầu
có câu đầy khinh thế ngạo mạn: “Cô vọng ngôn chi ”, và tác giả chuyển ngữ là: “Hình như lời người viết sử nói chuyện với…ma”.
Và:
“Té ra khi đọc sách, người ta chỉ
đọc những gì muốn thấy. Chứ không phải những gì thực sự hiện ra qua những
dòng chữ. Khoan nói tới nhưng gì phía sau các dòng chữ ấy nữa”. Để rồi như…lạc vào
mê hồn trận với sử gia, chẳng khác gì khói lửa kinh thành với thập nhị sứ
quân, nhất tướng công thành vạn cốt khô, cùng mỗi người mỗi niên đại, niên hiệu
khác nhau. Hết cuộc binh đao, nỗi buồn chạm mặt là gặp mấy nhà biên khảo, học giả, hành giả cùng địa
danh bắc giáp địa dư, tây giáp địa chí mù mịt như bát quái trận đồ.
Tối nay, canh khuya trằn trọc, vì mới đọc xong một đoản ký về hai trận
chiến giữa nhà Trần và quân Nguyên của sử quan Lê Trắc. Cụ vừa là sử gia, vừa
là nhân chứng, tôi thấy bài viết rất xúc tích và sống động. Như trận chiến lần
thứ nhất, cụ đứng về phía nhà Trần, nên tôi
cũng góp nhặt được ít điều như Bảo Hầu Trần Bình Trọng bị bắt ở ải
Thiên Mạc chứ không phải là ải Lão Qua. Sau cụ bị bắt làm tù binh, trận chiến
lần thứ hai, cụ ở bên chiến tuyến nhà Nguyên. Tôi mới thấu đáo được đường đi
nước bước của đức Trần Hưng Đạo là không đánh vào đại quân hay 500 chiến thuyền
của Thóat Hoan, mà nhắm vào 70 thuyền chở lương thực của địch, để Ô Mã Nhi vất
vưởng trên sông Bạch Đằng, còn lại chỉ là nhát kiếm treo ngành của tướng quân
Trần Quốc Tuấn.
Tôi thiếp đi lúc nào không hay, như lạc vào cõi Thiên Thai, đào nguyên
đâu không thấy, chỉ thấy như có túc duyên, để tôi gặp lại người trăm năm cũ,
không ai khác hơn là cụ Lê Trắc. Cụ áo lương khăn lượt, nho nhã tiêu dao, ra
đón tôi tận cổng, sau khi thủ lễ và vấn danh, cụ đưa tôi vào Cổ Đường. Qua mảnh
vườn nho nhỏ của cụ, cũng cầu ao khóm trúc, dăm ba chú vịt cùng đàn gà con, nấp
bóng dưới rặng chuối bên hè. Bước vào trong, thư phòng cụ thật đơn sơ và mộc
mạc, nền đất vách tranh, dăm ba cái ghế gỗ sô lệch, trên bàn có cái ấm điếu,
bộ điã chén sứ mộc…Chủ khách an vị, bậc tiền bối, kẻ hậu sinh, sau tuần trà,
cùng nhau đốt lò hương cũ. Miếng trầu là đầu câu chuyện, tôi nói tôi cũng
đang là người…”tha hương ngộ cố tri” như cụ xưa kia, cụ nheo mắt nhìn tôi
tuôn một tràng…tiếng Tầu: “Bộc
sinh trưởng
Thế nhưng tôi cũng ân cần xin cụ chỉ dẫn một vài khúc mắc bấy lâu nay
để…”tham chiếu”, như truyền thuyết
họ Hồng Bàng với ẩn dụ gì? Mà cho đến bây giờ, những bậc thức giả văn kiến
súc tích vẫn còn có những cái nhìn khác biệt. Vừa buông xong chữ tham chiếu là tôi ớ ra ngay, chỉ vì ngại
cụ không thông tiếng Việt thì bỏ bu. Cụ tủm tỉm cười, đôi mắt thật tinh anh
và nhắc khéo tôi ấy là tham khảo. Rồi cụ lại sổ nho: “ Kỳ tha tự thuật diệc giai tường thiệm,
tuân khả vi tham kê hỗ trợ chi trợ ”. Giời ạ, mặt tôi lại đực ra như ngỗng ỉa…
Sau đó là cụ ôn tồn kiến giải qua cái nhìn của một nhà sử học:
Theo cụ người phương Bắc muốn đồng hóa người Việt mình bằng cách cho rằng
cả hai là một dòng của người Hoa. Chẳng may sau một ngàn năm đô hộ, họ để lại
rơi rớt một đứa con rơi là Trần Thế Pháp với hai dòng máu Tầu – Việt. Vì vậy,
qua Lĩnh Nam Chích Quái, ông này
cùng chỉ muốn gán ghép nguồn gốc Hán tộc cho Lạc Long Quân. Thành ra cụ
khuyên tôi chỉ nên coi Hồng Bàng Thị như dựa trên chuyện kể dân gian nào đó với
những thêm thắt ly kỳ. Các nhà chép sử
bây giờ, với xu hướng chỉ tin những gì vào người phương Bắc ghi chép nên cũng
lập lại gần như nguyên văn những huyền thọai lơ mơ lỗ mỗ ấy thôi.
Tôi ngáo ra vì mới đây, có một hậu bối cũng luận chứng y như cụ và
chuyện rằng:
Bối cảnh của truyện vua Hùng được dựng chung quanh nước Sở với truyền
tích Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông người ở bắc Động Đình hồ đã gây ra
biết bao lộn xộn và hiểu lầm qua bao thế kỷ. Mục đích không ngòai chỉ chỗ cho
Việt tộc biết là họ phát xuất từ Hán tộc. Để người sau quơ cào Thần Nông là
ông tổ của họ và đây cũng là ngộ nhận của những nhà viết sử. Như Kinh Dương Vương, hòan tòan
tên hiệu là tiếng Hán ròng, mang nghĩa vua của châu Kinh và châu
Dương
của nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc. Rồi thì Âu Cơ cũng là người ở phía nam
Động Đình hồ, cũng người nước Sở, bên cạnh có nước Việt của Câu Tiễn. Hôn
nhân giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân là thứ hôn nhân của hai người dị chủng và đẻ
ra Hùng vương, tên tuổi cũng là tiếng Hán ròng nốt, như Hùng Huệ vương, Hùng
Tấn vương.. Hóa ra Hùng vương là người gốc Tầu hay mang hai dòng máu, tức…”lai”
Tầu rõ. Người hậu bối kết luận Truyện
Lĩnh Nam Chích Quái viết rõ mười mươi là như thế.
Biết vậy nhưng tôi vẫn ngậm hột thị, nghe cụ giải bày:
Cụ Ngô Sĩ Liên cũng như bất cứ ai, viết sử nhưng không có đầy đủ tư liệu
để mà viết, nhất là gần 13 thế kỷ sau thời vua Hùng. Vâng lệnh vua Lê Thánh Tông
sọan bộ quốc sử, cụ có lời tâm huyết là cụ “Không dám rong ruổi ngàn năm để làm chuyện chắp vá”. Chỉ vì sau nhiều
năm bị đô hộ bởi nhà Hán, cụ mượn truyền thuyết Tam vương ngũ đế với 18 vua Hùng để quân bình ngôi thứ, hai chủng
tộc mang cùng một huyết thống, hầu mong tránh cảnh nồi da xáo thịt. Nhưng non
sông gấm vóc thì hòan tòan riêng rẽ: “…từ Động Đình Hồ trải dài tới đất Hồ Tôn. Nước Đại Việt ta ở phía nam
núi Ngũ Lĩnh, thế là Trời đã chia
Thế nhưng sử gia Trần Trọng Kim, năm 1919, cụ sọan Việt Nam sử lược dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư và mang truyền
thuyết Hông Bàng vào quyển này. Cùng thời chữ quốc ngữ phát triển, Việt
Lại cũng cụ Trần Trọng Kim, hết nặng tình với nước non lại nặng nợ với
văn hóa nước nhà, cụ Trần lại mang “văn hiến” vào sử sách cho rách chuyện. Cụ
chép miệng thở dài, nói ra thì lộng ngôn, mà khổ một nỗi, tiếng Nôm ta xưa
không có chữ nào tương đồng với chữ “văn hiến” này cả.
Khởi đầu từ thời vua Trần Dụ Tông, vua Minh tặng cho sứ thần ta là
Dõan Thuấn Thuần bốn chữ “Văn Hiến Chi Bang”, để nâng địa vị sứ thần nước ta
trên sứ thần Cao Ly ba cấp. Đến thế kỷ 15, trong phần đầu bài Bình Ngô đại cáo, cụ Nguyễn Trãi viết
“Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang”, nghĩa là “Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn
hiến đã lâu”. Cụ Trần Trọng Kim là kẻ sĩ cuối trào Nguyễn, cụ cổ võ cho nho
phong sĩ khí, dựa vào Bình Ngô đại cáo
và họ Hồng Bàng khởi thủy từ năm 2879 trước Tây Lịch để có câu “Việt Nam có
4000 năm văn hiến” gần đây. Mà trước đó, ngay cả vua Tự Đức khi bút phê về việc
biên sọan pho chính sử nhà Nguyễn cũng đã tỏ dấu nghi ngờ với niên kỷ, niên đại
và cho rằng: “Chẳng qua sử cũ chép quá phô trương đó thôi ”. Cụ bâng quơ, nói chung thì các sử gia xưa
thường chép sử chứ không trình bầy. Các sử gia ngày nay nặng về sưu tầm chứ
ít tra cứu. Mà nếu có tra cứu gặp nhiều khó khăn, phức tạp và chính vì tính
cách phức tạp của khó khăn. Họ đã nhẩy qua vũng lầy của lịch sử, để dễ dãi
chấp nhận những gì của những sử gia đi trước. Ngay cả với bản thân cụ cũng
vậy, ngồi ở Đại Đô (Bắc Bình) với
những tư liệu hạn hẹp, đất đai xa cả nghìn dặm, địa chí mù mờ, sử học dựa vào
chiếu thư, đạo dụ, sớ chỉ. Sử quan sau cụ là những bảng nhãn, thám hoa nghe
mệnh vua, ngồi trong quốc sử quán, viết sử chính thức cho một triều đại nên
được gọi là chính sử. Thế nên họ chỉ viết theo thiên kiến, nhìn thấy một góc
cạnh thăng trầm nào đó, nếu có phóng tay viết khác đi một chút là mang tội khi
quân bay đầu như chơi. Nhẹ thì như Tư Mã Thiên, vì cãi lệnh vua không bẻ cong
ngòi bút mà thành họan quan. Trăm dâu đổ đầu tằm Khổng Tử là người tiên khởi
viết sử biên niên, thuật lại sử kiện dàn trải rải rác theo thời gian, từng
triều vua. Khổng tử cắt, bỏ sử nước Lỗ biên sọan thành sách Lâm Kinh tức Xuân Thu và than rằng: “Tri ngã
dã kỳ duy Xuân thu hồ - Tội dã
ngã kỳ duy Xuân Thu hồ!”. Diễn nghĩa là:
“Biết Ta cũng nhờ sách Xuân Thu. Buộc tội Ta cũng vì sách Xuân Thu!”.
Trăm dâu đổ đầu tằm…Ngu lâu đần dai cách mấy, tôi suy ra rằng cụ muốn
đàn tràng giải oan cho cụ Ngô Sĩ Liên. Vì sử gia sau đổ vấy rằng: “Ngô Sĩ Liên là người mang Hồng Bàng Thị
vào sử sách mà trước đó, Lê văn Hưu, Phan Phu Tiên, Lê Trắc thì không”. Thế nhưng họ quên
bẵng đi bài tóan nhẩm vừa gà vừa chó đếm đủ 36 con là cụ đây lưu lạc sang bên
Tầu thì không nói làm gì. Còn Lê văn Hưu mất năm 1332, trước khi Việt Điện U Minh Tập và Lĩnh Nam Chích Quái có mặt thì bói đâu
ra mà có…18 đời vua Hùng vương.
***
Đến đây cái đầu tôi lại ngọ nguậy, chẳng là dăm lần tôi cũng ôm một mớ
văn bản xưa về quan ải, càng đọc càng chộn rộn và chẳng biết ải Nam Quan nằm ở
đâu. Bỗng tôi chợt nhớ đến tối hôm qua, trong An Nam chí lược, cụ có đề cập đến trận đánh ở ải Pha Lũy tức ải
Nam Quan vào tháng 6 năm Đinh Mùi 1427 cùng những chỉ dụ, chiếu thư, phúc thư
bang giao giữa nhà Trần và nhà Nguyên.
Cụ tặc lưỡi, chuyện là như thế này:
Năm 1084 nhà Tống trả lại cho nước ta 6 huyên. Người Tống chế riễu việc
này qua hai câu thơ: “Nhân tham Giao Chỉ tượng – Khước thất Quảng Nguyên
kim”. Diễn Nôm là vì tham voi Giao Chỉ mà bỏ mất vàng Quảng Nguyên. Qua gần
cuối đời Nguyên, sau lọan lạc họ yếu thế, người An Nam ta vượt biên cương chiếm
thêm 5 huyện khác nữa vì vậy có cuộc tranh chấp lãnh thổ giữa vua Trần Thuận
Tông và Minh Thái Tổ qua văn thư, chiếu thư trong vòng 3 năm, được Nguyễn văn
Siêu, trích từ bộ sử Minh thực ục
và ghi vào sách Phương đình dư địa chí.
Cụ lấy ra dăm mảnh giấy hồng điều đã ngả mầu, đưa cho tôi và tôi cắm đầu tụng…
Chiếu thư Minh Thái Tổ:
(Ngày 1 tháng chạp năm Hồng
Vũ thứ 29, nhằm ngày 31-12-1396, trích Minh Thực Lục quyển 248, trang
3000-3001)
Giao Chỉ thuộc Giao Châu
xưa, dưới thời Hậu Hán có người đàn bà tên Trắc làm lọan. Vua Quang Vũ sai Mã
Viện sang bình định, bèn xây Đồng Trụ ở huyện Uyên
(Đồng Đăng) làm
trong ngòai. Gần đây, An Nam chiếm 5 quận đưa binh mã vào từ 100 tới 300 dặm
đánh phá 5 quận (khỏang 50 tới 150
cây số), chẳng phải thừa lọan lạc nhà Nguyên ta mà chiếm
được ư. Vua tôi đều nói đất này thưộc An Nam đã lâu, nhưng không biết do hai
đời Lý, Trần hay đời nào đặt ra, cứ nói theo đời trước bảo đây là đất của tổ
tiên mà không trưng bằng cớ.
Đợi tôi đọc xong, cụ trao tôi miếng giấy cắt thứ hai, tôi lại lúi cúi
niệm…
Chiếu thư vua Trần Thuận Tông:
Xét cho kỹ thời Hán Vũ thứ
19 sai Mã Viện đến Giao Chỉ đánh dẹp người con gái họ Trưng lập Đồng Trụ.
Tính đến nay đã hơn 1.350 năm, dưới một nghìn năm gò lũng đã biến đổi, ai mà
biết được Đồng Trụ ở đâu? Bảo hạ quốc vượt qua Đồng Trụ cả trăm dặm để xâm
chiếm 5 huyện, mới đây nhậm chức cho vẽ địa đồ đầy đủ cùng sự kiện trong Kiến
Vũ Chí, địa chí thư từ đời Hán, Đường của qúy quốc. Nếu hạ quốc xâm chiếm thì
trả lại có khó gì, nay không xâm chiếm làm gì mà có để thóai hòan. Năm huyện
này là của hạ quốc, đời truyền đời, đất để lại phải giữ vững. Đâu để đất đai
của tổ tiên giao cho qúy quốc, thế nên hai bên cứ giữ biên giới đã định sẵn.
Cụ chau mày nói với tôi rằng tiên sinh nghiệm ra thì thấy rằng chiếu
thư của vua Trần Nhân Tông, vị vua cuối cùng vào thời Trần mạt, đang ở thế yếu.
Vậy mà vua ta dùng lời vừa cay chua, vừa mãnh liệt, cương quyết không nhường
một tấc đất, quả là khâm phục thay.
Ngừng một chút, cụ trao cho tôi một
văn thư bộ Lễ nhà Trần gửi bộ hộ nhà Minh:
“Kể rằng trước đây thiên sứ
mấy lần đến tiểu quốc, khi nghênh tống cứ đòi dừng lại ở Đồng Đăng. Việc
nghênh tống và cương giới không liên quan gì đến nhau. Vì Đồng Đăng là chỗ
xung yếu, hoang dã, không có huyện quan lo việc khỏan đãi, nên không tiện lập
trạm”.
Sợ tôi chữ tắc đánh chữ tộ, cụ giảng giải ý bộ Lễ là không có chuyện
tiếp đãi và biên giới hai nước không phải ở ấp Đồng Đăng với văn thư tiếp:
“Còn việc giao cắt phu ngựa
thì hai bên gặp nhau tại cương giới, địa điểm hiện nay tại quan ải Pha Lũy Dịch,
giáp với đất Bằng Tường”. *** Tôi như muốn nhẩy cẫng
lên, quỷ tha ma bắt, hóa ra ải Pha Lũy hay Nam Quan nằm trong đất Trung Hoa gần
Bằng Tường thật. Theo bản đồ ngày nay, tôi lò dò đo với tỷ lệ xích thì đường
đi từ Đồng Đăng tới Bằng Tường là khỏang 20 cây số không sai chạy. Giời ạ,
như tác giả Tsai Tin Lang và Đại
Qua cụ, ải Nam Quan đã tìm ra rồi, nhân chuyện đất đai, tôi vạ mồm vạ
miệng thưa với cụ về cột trụ đồng Mã Viện phải chăng là ở Đồng Đăng như nhà sử
nhà Minh đã viết?.
Cụ trầm ngâm cả một lúc lâu, chậm rãi cho hay là trong cuộc cắm mốc
phân định biên giới vào năm 1886-1887 giữa ông đặc sứ tòan quyền Pháp
Constant và tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Chi Động. Ông Chiniac de Labastide, một
người trong phái bộ viết:
“Khi tôi cho ông chủ tịch
phân giới Trung Hoa biết rằng, mặc dù đã nhiều nỗ lực tìm kiếm, vẫn không tìm
thấy núi Đại Phân Mao Lãnh mà dưới chân núi có trụ đồng của tướng Mã Viện.
Ông này im lặng, vài ngày sau, ông chỉ tôi trên bản đồ phía nam Pi Lao một dẫy
núi và cho đó là nơi chôn đồng trụ. Khi tôi la lớn vì mạo nhận phi lý này,
ông ta mới trịnh trọng cho tôi hay là sách Đại Nam Nhất Thông Chí của nước
ông…ghi sai, trụ đồng ở ngay Tiểu Phân Mao Lãnh này. Ít lâu sau, tôi vô tình
gặp và hỏi một cụ già An (Địa
hình đồi núi khái lược của “Trấn Nam
Quan Bổ Phòng Đồ”: Cổng ra vào với Ải Nam Quan của ta nằm bên trái bức
họa (có đóng khung đỏ), từ cái nhìn qua “Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” của người Trung Hoa vào thời đại cũ nên ta
thấy được kiến trúc nguyên thủy của Ải Nam Quan bên phía nước ta. Ta thấy có
một cổng lớn, hai bên cổng là hai dãy tường thành dâng cao nhưng bị cắt ở hai
bên lưng núi. Một khoảng sau cổng mới đến phần cổng có mái ngói. Từ phần cổng
mái ngói này có dãy tường thành chạy dài lên đỉnh núi. Đó là phần đất Trung
Hoa). Kể xong, mặt cụ trầm tư trông thấy,
gần đây vào năm 2006, một sĩ phu Bắc Hà thổ cư ở Thăng Long cổ thành bây giờ
đã tìm thấy một tấm đồ thị có tên là Việt
Nam địa dư đồ lưu trữ ở Anh Quốc, do Xa Khâu Từ Diên Húc đời Thanh sọan.
Trong bản đồ có ghi: “Việt Nam quốc
tòan đồ thuật lược”, hiểu theo nghĩa là ghi chú tóm tắt và đánh dấu đất
đai của ta thời ấy, như “Nguyễn Quang Trung phụ tử cư” là thổ ngơi của cha
con Nguyễn Quang Trung. Tới “Thử Việt vương Nguyễn Phúc Ánh diệt chi tọa độ
thử” là vua Nguyễn Phúc Ánh diệt họ rồi lấy đó làm kinh đô. Ngay chỗ này ghi
“Việt Nam kiến quốc đô” tức đóng đô của Việt Nam. Vùng bể thuộc Việt Nam có
hai hàng chữ và dấu rất sắc sảo là “Tiểu
Trường Sa hải khẩu” và “Đại Trường
Sa hải khẩu” công nhận hai đảo này của ta vì với bản đỗ cổ thì Tiểu
Trường Sa chỉ Hòang Sa và Đại Trường Sa chỉ quần đảo Trường Sa hiện nay.
Cụ lắc đầu ngao ngán, có biên sử mà
chẳng có biên cương, nhờ có Nguyễn Văn Siêu mới biết nhà Tống trả cho ta 6
huyện, cuối nhà Nguyên, quân nhà Trần ta tiến sâu vào 300 dậm. Vậy mà địa
giới đất đai vẫn mù mờ, ngay vua Tự Đức cũng đã than: “Xét chung từ trước đến sau, đất đai của nước Việt ta đã
mất về Trung Quốc đã đến quá một nửa. Tiếc rằng vua sáng tôi hiền các triều
đại nhiều người hiếm có ở trên đời, mà vẫn không thể lấy lại một tấc, đó là
việc đáng ân hận lắm! Thế mới biết việc thu hồi đất đai đã mất, từ đời trước
đã là việc khó, chứ không những ngày nay mà thôi. Thật đáng tiếc…!” Biên giới nước ta rất dài, có rất
nhiều ải quan như Khải Lợi, Hàm Tử, Nội Bàng, Thiên Hán, Thiên Mạc, Phủ Dịch,
Hải Thi, Anh Nhi, Nữ Nhi... Đất nước càng ngày càng thu hẹp, chẳng biết tự
lúc nào, sử sách đi vào quên lãng, sử gia thao thức chập chờn. Cũng mới gần
đây thôi, sau khi vua Quang Trung mất, đến đời Quang Tự, họ đã phá ải Nam Quan,
để xây ải mới sâu vào đất đai nước ta. *** Trời đã quá khuya, điã đèn dầu lạc vơi dần, tim đèn
mầu xanh kêu lách tách, thư phòng lắng đọng trong mông lung, u tịch. Cụ như
chìm trong khỏang không nhạt nhòa, giọng cụ mệt mỏi, như níu kéo: Đất nước
lại thêm một lần mất mát, chẳng ai biết chẳng ai hay…nước non nghìn dặm ra
đi…như những cánh bèo nổi trôi….
Điã đèn dầu lạc loé lên rồi phụt tắt. Cũng vừa lúc cụ thăng trong khói
mờ nhân ảnh, đâu đây âm hưởng tự còi u minh, trầm uất vọng về tự nghìn năm xa
vắng: - Trả ta sông núi.. Trả ta s..ô..
ô..ng núi.. Trả ta sông n..u..ú..i…
Trúc gia trang Giáp
Thân 2004
Phí Ngọc Hùng Nguồn:
Việt Điện U Minh Tập – Lý Tế Xuyên Lĩnh Đại Việt Sử Ký TòanTthư – Ngô Sĩ
Liên Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên sọan) Việt An Nam Chí Lược – Lê Trắc Bài viết được góp nhặt qua những
tác giả: Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Lý
Tưởng, Trần Gia Phụng, Nguyễn Phương, Tạ Chí Đại Trường, Trần Đại Sĩ, Hồ Ngọc
Thảo, Bửu Sao, Nguyễn Xuân Quang, Lư Tấn
Hồng, Hòang Hữu Quýnh, Nguyễn Gia Liên, Trần thị Vĩnh Tường, Nguyễn Đức Cung,
Nguyễn Phúc Giác, Lê Hữu Mục, Trương Nhân Tuấn, Lê văn Lân, Võ Phiến, Nguyễn
Minh, Nguyên Nguyên, Vương văn Quang, Nguyễn thị Phương Châm, Phạm Hòang Quân.
|
|