|
Bạn già ngật ngừ ho khan rằng từ ngày
cáo lão về hưu có gì trái nắng trở trời chăng? Ừ thì vẫn một ngày như mọi
ngày, sáng tinh mơ, tay cà phê, tay thuốc lá cù rũ đằng góc vườn ngồi trong
bóng tối đợi nắng lên. Chiều đến, cũng ở chỗ ngồi thân quen ấy, tay điếu thuốc,
tay ly rượu câm lặng như một chiếc bóng đợi thời gian tới…Rồi đợi ngày mai,
nhưng tự hiểu rằng ngày mai sẽ là quá khứ của hôm nay và chẳng còn ngày tháng
nào trước mặt…Vào cuối ngày tàn, chiếc bóng lầm lũi đi vào căn nhà quen thuộc,
để lại quá vãng ở sau lưng với cố hương nan khứ hậu nan quy. Thế là xong một
ngày… Bạn già nhíu mắt búng lưỡi lâm râm: Úi
chà nan khứ, nan quy gì mà khiếp quá thể vậy! Dào, ắt hẳn là hoài cổ, hoài đồng
vọng nữa đây? Ừ thì thưa bác, cũng không ngoài dăm ba chuyện quẩn chân ngứa mắt
đi loanh quanh trong nhà như cái đèn cù, mà phải bước từng bước một để níu kéo
thời gian đừng cho ngày tháng qua mau. Chẳng vô tri bất mộ quá lắm, lại cũng đâu
đó lặng lờ ngắm cái bát điếu, cái tẩu
thuốc phiện trên cái kệ kính, lại lửng lơ tri giao quái ngã sầu đa mộng với
con quay, con vụ của cái buổi ấu thời
qua một, hai bài viết của ai đó trên cái kệ sách đằng góc phòng ấy mà, thưa
bác. *** Một ngày…vèo nghe lá rụng đầy sân, đang ngồi rình rình những bước đi im ắng
của thời gian. Lớ quớ rối loạn tiền đình thế nào chẳng biết nữa nhúm được một
truyện ngắn của tác giả Nguyễn Thị Ấm viết về Hà Nội, ở ga Hàng Cỏ có những
con ngõ nhỏ với những người bốc thuê vác mướn, gánh nước, đạp xích lô tại một
phố vắng, gần bến ô tô. Ba người đàn bà đứng tuổi ăn mặc lem nhem đương chúi
đầu chơi bài. - Kết mã đen - Bà mặt rỗ vừa nói vừa vỗ
đùi đánh đét một cái. Hai bà kia sững sờ móc tiền ra trả… Lát sau, trời bắt đầu mưa lâm râm. Cái
giờ khắc lau lắt của thành phố trôi đi nhanh lắm. Chiếc đồng hồ trên nóc nhà
ga dạo một khúc nhạc lạc lõng. Hai kim đồng hồ chập một chỉ vào số mười hai.
Thời gian vẫn trôi đi. Một giờ...hai giờ...ba giờ...năm giờ sáng. Trời sáng dần...Có tiếng chuông xích
lô kêu kính coong, tiếng còi xe ô tô kêu tin tin. Đường phố ráo hoảnh…Mưa đã
tạnh… Thế là được thể đệ
thơ thẩn cùng cái tuổi mới lớn lãng đãng về ngày xửa, ngày xưa với con phố Chợ
Đuổi của cái tuổi ấu thời. Tết đến cả nhà quây quần trên sập gụ, chiếu hoa với
tướng điều, sĩ đỏ, xe, pháo, mã hồng. Những
hồn vía vất vưởng ấy, tất cả chỉ là Hà Nội hòai vọng, Hà Nội vọng tưởng đâu
đây. *** Nói cho cùng chuyện chẳng thành chuyện.
Nếu có chăng nữa chỉ là một chút hoài cố nhân đến cụ bạn thâm căn cố đế của
ông cụ đệ chả hẳn là …quan Đốc đồng, áo
đen nẹp đỏ, mà là một cụ Chánh Tổng. Cụ qua đây xin nhận nơi này làm quê
hương, sẵn có ít chữ nghĩa dằn túi, nửa đêm đèn tàn, sẵn cái mạch quê hương bản
quán, vạn kiếp tha hương ngàn đời thê thảm, cụ dàn trải qua những năm cùng
tháng tận với đánh đu, chọi trâu, đánh vật của một thời xa xưa ở quê nhà. Cụ lụm
cụm ghi lên dăm ba trang giấy những xao xác và chẳng thể thiếu vắng tiếng gáy
đứt quãng cúc cù cu của mấy con chim cu đất buồn đến nẫu người. Những hoài đồng
vọng ấy tự thưở nào…xa lắm, cũng gần gũi lắm như mới đâu đây cứ bám cứng với cụ
Chánh vào những khi tối lửa tắt đèn nơi đất khách. Vì cụ thảng nghĩ rằng chẳng
còn mấy ai rỗi hơi nhắc lại cái thú chơi quê
mùa ấy, rồi ra sẽ nhạt nhòa dần trong những ngày nhạt nắng…như cụ vậy. Tiếp, mỗi
năm, mỗi báo Tết ở thành phố mà cụ và đệ đang…luân lạc, cụ lại rập ràng bày mực
tàu giấy đỏ với cái thú chơi tổ tôm, chắn, xóc đĩa đã lạc mùa bên phố đông
người qua. Cụ Chánh Tổng đã thành người muôn năm
cũ. Còn lại đệ cũ mốc, cũ sì với vong gia thất thổ đã lâu nên cứ giấy đỏ buồn
không thắm, mực đọng trong nghiên sầu qua hồn ma cũ với tứ tử trình làng,
trong canh khuya đèn tàn với tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa này kia, kia nọ.
Và cứ hẹn lần sẽ có một ngày…”của đi tìm người”, thưa bác. Bạn già chép miệng chỉ khéo dệt chuyện,
vậy thôi ư? Ừ thì chuyện đâu vẫn còn đó, đất trời vẫn vu vơ với mây vẫn bay,
ngày vẫn trôi đi, với nhật mộ hương quan hà xứ thị, yên ba giang thượng cổ nhân
sầu, sầu qua nỗi nhớ. Thì nhớ những ngày giữa năm, cuối tháng trời hom hom, đất
đơ đơ, bắc ghế ngồi ở góc vườn... Khi không tuổi lá vàng như rúc vào mây, nôn
nả với những dĩ vãng xa quệt lên nhau. Trên không cuồn cuộn đám mây rối, nhìn
bầu trời nhá nhem, thoắt đổi thành mầu hoa mướp, hoa bí mênh mang, rười rượi,
trễ tràng nên đâm ra nhuốm mùi hoa xưa cũ. Để rồi sẽ có một ngày nào đó như vừa
vung vãi với bạn già ở trên. Một ngày lang thang trên mạng lưới nhúm được bài
thơ Miếng quê hương của người thơ Cung
Vĩnh Viễn. Ông viết về cái tuổi lá xanh qua một cuộc tình nhạt nhòa theo năm
tháng, mang mang một nỗi quan hòai hồng bay mấy lá năm hồ hết, thơ thẩn kìa
ai vẫn đứng trông: Chia hộ ta ván bài tam cúc Mãi ngắm bàn tay nhỏ dịu hiền Dấu
bài xấu tốt ta chui hết Để nhìn cho em kết tốt đen Bạn già thở hắt ra làu nhàu, đang gần đất xa trời lại ngoa chữ
với nhìn cho em kết tốt đen làm gì cho
rách chuyện. Ấy đấy, xa Hà Nội, xa Sài Gòn vậy mà vẫn rơi rớt lại dăm người
còn dây mơ rễ má đến cỗ bài hai mầu đen, đỏ với đen bạc đỏ tình. Nói cho ngay
thì tự thưở nào, đêm trăng, giếng nước làng, ngày Tết, bộ tam cúc là khoảng
thời gian, nơi chốn để hai người yêu nhau tỏ tình với một nhớ hai thương. Để
bây giờ đệ nghe hơi gió chuyển mùa sang, tuổi già cám cảnh đôi hàng rụng rơi là thế đó. *** Từ những cảm hoài mênh mang ấy, đệ mượn
cớ lây lất qua một tác giả khác tên Nguyễn Nguyên Tản cũng viết về Cây tam cúc nhưng lại quên bu nó mất. Bèn
mò vào kệ sách mang bản in giấy trắng mực đen ra vườn rị mọ với chữ nghĩa: “…Chiều Hà Nội dường như lạnh hơn. Tôi
và thi sĩ Hoàng Cầm, người mệnh danh là “gã trai lơ” của Kinh Bắc một thời ngồi
cạnh nhau, hàn huyên trên ban công tầng 5. Ngày ông chỉ ăn hai bữa, lúc cháo,
lúc cơm. Rượu uống hết sáu chén, thuốc lào vẫn rít đều đặn. Riêng “anh chàng bàn đèn” vẫn ngả nghiêng với
ông vào buổi sáng. Giọng ông đều đều: “Tôi chỉ ngủ được ba bốn tiếng thôi,
còn đâu là nghĩ. Nghĩ nhiều quá lại thấy buồn. Đôi lúc không muốn nghĩ nữa,
nhưng kỷ niệm vẫn cứ ập về. Tôi làm thơ nên cảm xúc nhiều. Khổ”. Ông ngồi vê
vê thuốc lào, tìm chiếc bật lửa, lại châm đóm, lại rít một hơi dài, ánh mắt
nhìn vào khoảng trời chiều, giọng từ từ: “Bài thơ Lá diêu bông là sau này tôi viết tặng chị Vinh. Nếu biết tôi tặng,
chắc chị cũng ngậm ngùi…“. Chị lấy chồng, tôi có viết câu thơ về
chồng chị trong bài Cây tam cúc: “Quan Đốc đồng, áo đen nẹp đỏ”. Chị Vinh và chồng có một cô con
gái, nhưng hai người đã chia tay. Anh chồng bắt mất cô con gái. Vì vậy chị
vào Sài Gòn ở với mẹ, hai mẹ con bán hàng tạp hóa, cuộc sống cũng chẳng khá
giả gì”…”
Chơi tam
cúc(?) - tranh Đông Hồ (Bộ tranh dân gian Oger – 1909) “….Với bài Cây tam cúc, thơ của Hoàng Cầm thật
giàu hình ảnh gợi hình, gợi cảm, có chút chinh xèng gây men với chơi tam cúc,
làm sống dậy hoài niệm về tuổi ấu thời. Cỗ bài tam cúc mép cong cong “Chị gọi đôi cây, trầu cay má đỏ”, không
biết có phải vì rơm ấm, hay vì men nồng để “Kết xe hồng đưa Chị đến quê Em”.
Ngồi trên ổ rơm, kết đôi cây bài gợi nhớ bâng khuâng. Chị thì vô tư má hây đỏ
hồng men trầu cay, còn Em thì rộn rạo vì được sưởi ấm bằng hơi hướng của tuổi
đương thì. Đem rút trộm rơm nhà để làm ổ đánh bài, những lẫn ngẫn ấy đã làm
câu thơ có hồn và gợi nhớ một cái gì đó từ thuở còn bé tí.. Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm Đứa được “Em nghé cây bài tìm hơi tóc ấm”, ván
bài ấy cứ ngưng đọng lại, mãi mãi em vẫn còn bé bỏng. Em chơi bài mà “tướng
sĩ đỏ đen chui sấp ngửa”. Trong
thâm tâm, chỉ muốn được gần chị để hương thơm của ổ rơm vẫn còn náo nức tuổi
đương thì. Ván bài có người thua kẻ được, chinh tiền xủng xoẻng nhưng Em thì
vẫn muốn đi đêm đánh đổi cây bài tướng điều, sĩ đỏ cao giá hơn, mong lấy cây
xe hồng với ước nguyện đưa chị về quê em như một ước mơ ấp ủ cả đời. Năm sau giặc giã Võng mây trôi Em gọi đôi (1960) Đôi cây bài tam cúc chập chờn ở lằn
ranh trẻ con, người lớn em đừng lớn nữa Chị đừng đi. Chị đừng đi là niềm mong
mỏi phải lẽ rồi. Nhưng sao lại mong em đừng lớn nữa? Phải chăng trong “Em”
luôn có “Chị”. Lấy cuộc chơi bài làm ẩn dụ, nhà thơ gửi gắm khát vọng yêu
đương kín đáo và nỗi đau mất mát, không tới bến bờ, gợi lên trong niềm trắc
ẩn, những uẩn khúc. Ai đấy còn vương vấn mãi làn hương mái tóc người con gái
đương xuân, mùi rơm thơm ngái của đất quê và nhất là hương vị của một tình
yêu vô vọng vừa mới lớn... Trong bài Gọi đôi ông làm những câu thơ thật tha thiết: Áp môi bóng cõi mưa dài Hai dòng lệ chảy hai bờ sông trôi Em
bay… *** Bạn già
lại thở hắt ra làu nhàu gì mà cụ Hoàng Cầm mới nứt mắt ra đã yêu đương. Đúng
là ngộ chữ có khác. Thôi mà bác, với cái tuổi hom hem lục thập nhi nhĩ thuận thì
nôm na là nhằm ở cái tuổi này nghe gì cũng thuận tai, xin bác đại xá cho. Bạn
già khủng khẳng rằng “nhĩ ” đây không có nghĩa là “tai”. Mà là”dĩ ” là “đã”.
Dạ…đã, thưa bác Ngộ chữ bài viết xong là quên ngay,
cái tuổi cóc cụ là như thế đấy. Bỗng chốc chuồn chuồn ở đâu lạc tới vườn nhà.
Chiều về ễnh ương, chẫu chuộc gọi nhau “ì à ì ộp…”, nhẩm chừng tối nay thế
nào trời cũng giột giời. Bất giác nhìn lên khỏang không, nắng nhòe nhoặt đùn
lên, đất trời trùng hẳn xuống, gió thổi mây xoắn tít, bụng dạ cũng xoắn xúyt những
nỗi lao xao không tên nằm tịt trong ký ức, nay đang ngọ nguậy như con rạm,
con cáy đang muốn rủ nhau chui ra từ trong hang, trong hốc. Nói cho cùng, cái
tuổi bóng ngả đường chiều dường như đang loay hoay mầy mò trở về nơi cất giữ
tuổi thơ…Ấy vậy mà vừa nhọ mặt người, sấm dền dứ, chớp nhoằng nhoàng, và mưa
thối đất mù trời, đêm nằm khan nghe những âm thanh đồng vọng
“ì à ì ộp…” vang trời dậy đất. Thao thức không ngủ rồi lại ngủ…lại thức và lại
ngủ, cuối cùng…ngủ không được… Bèn lồm cồm dậy mở máy vi tính và…của
đi tìm người cùng Hồ Dzếnh: “…Thuở ấy,
đất bắc trong cái lạnh lẽo của những ngày lập xuân, mưa phùn lất phất. Trong
bếp lửa đỏ rực của cái nồi bánh chưng, cả nhà xúm nhau vào chơi tam cúc. Để rồi
có những mối tình đã nhen nhúm qua bếp lửa hồng. Trong bếp, lửa làm ửng hồng
thêm má và long lanh đôi mắt, chẳng có gì để nói, nhưng cảm thấy ấm cúng, gần
gũi. Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, cách nhau một dậu mồng tơi xanh rờn và ở đấy có
nhà thơ người Minh Hương là Hồ Dzếnh. Ông đã hòai cảm qua cái tuổi mái tóc đã
điểm sương, nhưng vẫn không nguôi ngoai qua nỗi nhớ của những ngày còn hoa
niên: Ngày Tết mải chơi tam cúc Không hay anh tới sau lưng Ghé lại gần anh mách nước Kết luôn xe, pháo, mã hồng Ơ, ván bài em đỏ quá Đỏ như đôi má ngày xuân Em có ăn trầu đâu nhỉ Mà sao người thấy bâng khuâng Bằng vào cái tuổi
này, qua Hồ Dzếnh mới thấm men trầu đâu có nồng thắm bằng men cay của kết đôi
với pháo đỏ, xe hồng và cũng theo lời ông kể, chớp mắt một cái là năm sau lại
ẩn hiện sau lũy tre làng “Từ đó mỗi mùa đào nở, pháo xe lại nối cây bài”. Ông u uẩn cùng những tia nắng muộn
màng: Nắng mới rọi vào song cửa
Bạn
già nhíu mày, bập bập môi ra điều nay tóc đời ta điểm bạc, bể dâu thời thế
phôi pha thì còn gì nữa của cái tuổi
thơ ngây? Chợt thoáng nhớ ra Y Dịch Lê Đình Điểu cũng có bài thơ viết về mùa
xuân và bộ bài tam cúc, riêng hai chữ Y Dịch không thôi ắt hẳn cũng chẳng còn
trẻ nữa. Thế là cái tay táy máy di chuyển con chuột đi tìm tác giả này: Chuyện
cũng chỉ có hai người yêu nhau với những ngây ngô của cái thuở mới lớn qua ván
bài tam cúc khởi đầu cho một chuyện tình. Tốt đỏ mà đè tốt đen Bị đè còn khóc giơ tay đòi tiền Có gan để kết tốt đen Người ta thua mất sáu hào
hai xu!... Sáu hào hai xu cũng lớn lắm với tuổi
bé tí tẹo nhưng cũng chưa bằng sự giận dỗi của cô bé. Đổi cả cuộc đời còn được,
xá gì món tiền ấy. Chỉ để lấy lại một nụ cười: *** Thời này còn mấy ai mó đến những cây
tam cúc của ngày nào năm ấy. Riêng đệ thì không, chả là chuyện người thời
thông hanh, còn chuyện mình thế nào đây? Thôi thì năm hết Tết đến, xin phép
bác để đệ len chân vào chiếu hoa một cõi một chút nhá. Và chuyện như thế này đây, thưa bác: Tết năm nào cũng vậy, nhà đều bầy tam cúc ra
đánh với bạn bè thân cũng như sơ và lẽ dĩ nhiên đệ có một chân để rồi tương
kiến diệc thời nan, biệt diệc nan với một đôi mắt buồn thật buồn.
Nói cho ngay vào những năm tháng ấy, đệ không biết gọi bà hay cô, mà chỉ biết…cô
còn trẻ lắm. Biết thêm tí nữa thì không ngoài cô lái chiếc xe Peugeot trắng,
mui trần, dáng người đài các, cô đi guốc cao gót, sức nước hoa Rêve d’Or. Tết
nhất, cô chỉ mặc một cái áo dài nâu. Cô có giọng nói trầm ấm rất người Hà
Thành, cười ròn tan như ấm nước sôi reo. Vậy đấy thưa bác, bằng vào cái tuổi
nhì nhằng, chưa một lần biết lất phất yêu và cũng chẳng hay người Hà Nội
thanh lịch ra sao, chưa vất vưởng nước hoa Rêve d’Or mùi vị như thế nào. Ấy vậy
mà đệ cũng đã váng vất với đôi mắt sầu
cô quạnh, khi gió heo về một sớm mai. Bạn
già chậc lưỡi đánh tách một cái ra ý chuyện khơi khơi vậy thôi sao? Chả hiểu
gì sất! Chả dấu gì bác, cho mãi đến gần đây đệ mới u mê ám chướng ra cô chính
là người có đôi mắt u ẩn chiều lưu lạc của
nhà thơ Quang Dũng. Thế mà đến cả mấy năm nay vẫn chưa dám đụng tới cái bàn
gõ. Kiểu hồn vía vẫn bay lượn đâu đó mà chưa thấy hình hài mà nhập vào, chả hẳn
vì cái bệnh lười của cái tuổi khọm, rõ ra phải đợi một túc duyên nào đó. Bạn
già láp ngáp gì mà đụng đến cái bàn gõ như mõ sớm chuông chiều, rõ chỉ khéo
buôn chuyện! Ừ thì biết thưa thốt với bác thế nào đây, chả là khi ấy đệ ”đồng
tuế” với cụ Hoàng Cầm qua chuyện chị Vinh với: “Cái cảm giác lúc mười hai tuổi
sao cứ kéo dài mãi, để lửng lơ những xao động khôn nguôi dưới kia sông chẳng
quay đi, mười hai tuổi cũ biết gì chị ơi”. Đũa mộc chòi mâm son thế đấy, thế
có láo không hả bác? Một ngày, cây giống bóng của giống
người, bỗng dưng lòng dạ cứ dàn dạt thắt lại với tiếng lao xao như xé vào
trưa hè của canh bài chòi dưới cái chòi lá, của tam cúc chiều 30 tết bên cạnh
nồi bánh chưng trong bếp lửa hồng. Chẳng phải phét lác gì, đôi cây bài tam
cúc với đệ hay cụ Hoàng Cầm chập chờn ở lằn ranh trẻ con, người lớn em đừng
lớn nữa chị đừng đi. Cụ lấy cuộc chơi bài làm ẩn dụ, nhà thơ gửi gấm khát
vọng yêu đương kín đáo, gợi lên trong niềm trắc ẩn, những uẩn khúc. Riêng uẩn khúc của đệ, tạm cho là thế
đi, lại nằm ở mãi tít ở khúc sau, thưa bác. Rồi ra
cũng ngồi xuống để mơ màng theo gió và vơ vẩn cùng mây. Ấy thế mà mỗi lần đệ nhập
hồn vào máy vi tính thì coi như “thăng” đến chiều, đến lúc nhớ rượu bia mới
thôi…Ra ngoài vườn cũng ở cái chỗ quen thuộc ấy, chả lẽ lại cuồng chữ với chuyện
nắng chuyện mưa, nên đành bối rối nhìn trời nhìn đất…, đành bò vào nhà mở máy
vi tính, thì của người phúc ta, túm tó ngay được một bài viết của tác giả
Nguyễn Duyên: Quang
Dũng là nhà thơ thời tiền chiến có nhiều bài thơ hay, trữ tình như: Tây tiến, Đôi bờ.. nhưng Đôi mắt người Sơn Tây là một bài thơ
được nhiều người ái mộ. Bài thơ như nói lên cuộc gặp gỡ đượm màu chia ly giữa
nhà thơ với người con gái trong thời loạn lạc, một thoáng quen nhau và chia
tay giã biệt, một cuộc tình buồn ngắn ngủi: Em ở thành Sơn chạy
giặc về Như vậy
người con gái nầy chắc hẳn ở Sơn Tây, và đã gặp nhà thơ? Nhưng là ai, tên gì,
làm gì, ở đâu? Nhiều giai thoại cho rằng Quang Dũng quen người con gái Pháp
vì câu “Mắt em dìu dịu buồn Tây
Phương” ?. Thế nhưng
Tây Phương đây là địa danh của tỉnh Sơn Tây ngày ấy với ngôi chùa Tây Phương. Trở lại
khi ấy Quang Dũng là đại đội trưởng trung đoàn Tây Tiến được nghỉ phép, về
thăm gia đình ở Phùng thuộc tỉnh Sơn Tây, ông tạt qua nơi có tên là kinh Đào ở
gần chợ Đại, thăm “người tình cũ tên là
Nhật”, có một mỹ danh là “Akimi”,
nàng có hàng cà phê mà ông thường hay ghé qua. Akimi Nhật sống cùng mẹ, trong
cái quán nước đơn sơ nầy, có lần Quang Dũng làm thơ ca ngợi Akimi Nhật và dán
lên vách nứa: Tóc như
mây cuốn, mắt như thuyền (Đây là bài thơ mới phát
hiện sau nầy do bà Nhật, hiện định cư ở
Hoa Kỳ cung cấp). Qua
thơ, người thưởng thức vẫn thấy một bóng hình đẹp, lãng mạn của người con
gái, tuy rằng không thấy mặt? Có lần Phạm Duy cùng Quang Dũng đi xe đạp về chợ
Neo, hai người chạy song song trên đường làng…Ông kể về mối tình của mình với
người đẹp Akimi và đọc lên bài thơ tặng nàng: Thương nhớ ơ hờ
thương nhớ ai Sau nầy,
chiến tranh lan rộng, Akimi theo mẹ về thành bỏ lại người xưa…tan vỡ một mối
tình….Gặp lại người xưa ở Hà Nội, ông làm bài Không đề có câu: Em mãi
là hai mươi tuổi Năm 54,
Akimi di cư vào Sài Gòn, một thời là kiều nữ của nhà hàng Tự Do, đến 1975
sang Mỹ định cư. Akimi đi để lại cho Quang Dũng một nỗi nhớ ơ hờ và chỉ biết: Bên nầy đất nước
nhớ thương nhau *** Trở lại
đệ với bác, quay về chuyện một ngày như mọi ngày, như mọi lần bắc ghế ngồi
ngoài vườn và cũng chẳng thể thiếu bao thuốc lá, chai rượu. Ngồi không, đầu lục
đục với mai kia, với của đi tìm người, óc bời bời với cái nắng xanh trời trắng
đất, đâm nháo nhác cầm cái ly, nâng ly, làm một hớp. Chợt nghe tiếng chuông
“kính coong” ngoài cửa. Bèn chớ phở ra đã bấy lâu nay bác tới nhà, bầu vừa rụng
rốn, mướp đương hoa, ngó chừng thấy bạn
già tay cầm cây gậy chống trời lụ khụ đi tới. Thế là đệ mượn miếng trầu là đầu
câu chuyện, bạn già chắc mẩm là chuyện tổ tôm, chắn hay xóc đĩa chi đây? Hoặc
giả như năm cùng tháng tận với đánh đu, chọi trâu, đánh vật. Ấy vậy mà đang vui
chuyện, vui trò khi không người Quang Dũng lại…buông lơi, bỏ lửng với bên nầy đất nước nhớ thương nhau, em đi áo
mỏng buông hờn tủi…Cứ theo bạn già thì Quang Dũng làm quái gì có bài
thơ nào về “tam cúc”, chỉ có Hồ Dzếnh, Hòang Cầm. Vậy chứ
còn ai nữa kìa? Còn ai trồng khoai đất này, thưa bác.
Bác háy mắt húng hắng rằng lại vun chuyện nữa. Thì chẳng qua đệ
cũng như cụ Chánh Tổng qua đây, sẵn cái mạch quê hương bản quán, vạn kiếp tha
hương ngàn đời thê thảm, nên đệ dàn trải năm cùng tháng tận với bộ bài tam
cúc. Hay nói khác đi, đệ nào có
khác gì “cậu bé” Hoàng Cầm trong bài Gọi
đôi cứ muốn muôn năm thời trẻ mãi không già, để yêu mê một hình dáng… Mới gần đây, đệ rối loạn tiền đình thì
hóa ra người có tóc như mây cuốn mắt
như thuyền lại là…là…bà cụ thân sinh của một người bạn đồng môn
nhỏ hơn đệ vài tuổi. Khỉ thế đấy, thưa bác. Ấy vậy mà vay mượn cái tâm thái trễ
tràng nhuốm mùi hoa xưa cũ, khỉ gió cắn răng gì đâu chả biết nữa, năm tao bẩy
tiết bà nhẩy bổ vào đầu đệ: Hết…từ đó mỗi mùa đào nở, pháo xe lại nối cây
bài, qua quần nào áo nấy, quần lụa, áo dài lụa cùng một nâu. Để rồi đệ được
thể khuấy nước kênh đào sóng nổi lên,
và rối tít mù với mùi ngọt, nồng…nước hoa Rêve d’Or. Và rồi chẳng thể quên Đôi mắt người Sơn Tây của Phạm Đình
Chương: Thương
nhớ ơ hờ thương nhớ ai *** Bạn già lưỡi đá miệng râm ran: Dào!
Lại cái mửng cũ, lại…thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai. Gì mà “nhiễu” quá thể vậy với mắt em.. ơi,
mắt em xưa có sầu cô quạnh. Dạ thưa bác, nhiễu sự là gần đây, đang
tửu lạc vong bần bên phố chợ, một thằng bạn đời quấy rầy đệ bằng một câu hỏi
liêu xiêu nằm ngủ quên trong quá khứ đã lâu: - Mày có đôi mắt buồn nào không? Thêm một lần, thế là được thể đệ để
hồn vía lang thang bay bổng với mây trời:
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mưa
Xa quá rồi em người mỗi ngả
Bên này đất nước nhớ thương nhau Gọt chữ đẽo câu cho lắm, nào đệ có khác gì Hồ
Zếnh: “Ông đã hòai cảm qua cái tuổi mái tóc đã điểm sương, nhưng vẫn không
nguôi ngoai qua nỗi nhớ của những ngày còn hoa niên”. Lần theo những bước
chân di của ông trên lối mòn của những ngày tháng cũ, đệ dạ quan hoài với
ngày tháng qua mau cùng lá vàng rơi trên giấy, ngoài trời mưa bụi bay…Và để hồn
đi hoang về một mảng dĩ vãng nằm trong tâm khảm, ở đó có một người con gái có
đôi mắt u ẩn chiều lưu lạc, buồn viễn xứ khôn khuây bằng vào cái tuổi mười
sáu, khi vừa biết yêu. Ừ thì chuyện cũng có đấy, làm như ai
chẳng một lần trong đời bị đồng thiếp với cây giống bóng của giống người qua
một hình ảnh, một nhân dáng. Mà ấy là chuyện khác… *** Ừ thì tuổi già
là vậy, cùng một thoáng mây bay qua con quay, con vụ, cái tẩu thuốc phiện,
cái điếu bát cũ sì, cũ xưa. Và vừa rồi là chuyện tốt đen, tốt đỏ nhạt như nước
ốc ao bèo. Thời gian vẫn trôi đi rồi mất hút. Mai kia là cái giống gì đây? Ấy
đấy, trong kho chữ còn vất xó mươi năm dăm bài viết cũ mốc để cho con điệp tử
thư trung nó gặm nhấm như tranh Đông Hồ,
Mã nhật tượng điền xe liền pháo cách, Cái điếu cày, Bộ ấm cũ…Rồi ra cũng như
hoa mướp về chiều với đình thụ bất tri nhân tận khứ, xuân lai hòan phát cựu
thời hoa. Thì như đã bảo, chuyện gậy trúc khua cua là thế đấy, thưa bác… Chiều về, bỗng chốc
cóc nhái gọi nhau kêu “ì à ì ộp…” nên bụng bảo dạ thế nào cũng giột giời. Thế
nào ngày mai trời cũng mưa…
Thạch trúc gia trang
Qúy Tỵ niên 2013
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
|
|