|
Tựa: Nhớ lại những năm đầu
qua đây, với nỗi sầu viễn xứ của người di tản buồn, năm thì mười họa, người
viết hồi tưởng lại những ngày ở quê nhà nằm khểnh đọc Exodus của Leon Uris.
Tác giả tả cuộc hành trình từ Cypress về Palestine lập quốc của những người
Do Thái tha phương cả mấy nghìn năm tụ về một mảnh đất chỉ có tên trong thánh
kinh. Có một đôi lúc người viết ngẩn ngơ không hiểu nổi là lúc này mình cũng
đang có mặt ở đây, khi không bỗng dưng thành một người Do Thái da vàng với những
vu vơ hụt hẫng. Ngày là lá tháng là mây,
cái đầu óc già cỗi viễn tưởng đến cả trăm năm sau, tính đổ đồng 25 năm là khoảng
cách của một thế hệ. Rồi thì ba, bốn thế hệ con cháu sau này…Một ngày đường
mưa ướt đất, với niềm u hoài vọng cố hương, họ khăn gói gió đưa trở về thăm
quê cha đất tổ. Những “người về tự trăm năm” với giấc hương quan luống mẫn
canh dài, họ viễn mơ đến một ngày hồi cố quận, và rồi họ có mặt ở mảnh đất mà
địa danh, niên kỷ theo thời gian rơi rớt trên cỏ khô gỗ mục với giấy đỏ buồn
không thắm, mực đỏ trong nghiên sầu. Chợt người viết ngậm
ngùi đến “người muôn năm cũ” trong sử thi: “…Thái sư Trần Thủ Độ âm mưu soán ngôi nhà Lý, hoàng tử Lý Long
Tường, con thứ của vua Lý Anh Tông (1138-1175), cùng đòan tùy tùng từ bến
Đinh Hải nhắm hướng bắc vượt biển đông và cập bến Phú Lương Giang, tỉnh Hoàng
Hải (Hwang Hac) thuộc bắc Cao Ly vào năm Bính Tuất 1226 và được vua Cao Tông
(Kojong) cấp lương thực và cho định cư ở đây. Sau này hoàng tử Lý Long Tường
giúp vua Cao Tông đánh bại quân Mông Cổ hai lần và bắt sống được tướng nhà
Nguyên là Amukhan ở núi Hoa Sơn nên được phong tước hầu và lập bia Thụ Hoàng
Môn Bi Các, dân trong vùng gọi hoàng tử là Bạch Mã Tướng Quân, đồng thời núi
này được đổi tên là Lý Hoa Sơn. Nhóm di dân bắt đầu cuộc sống mới, lập lên ba
làng là làng Giao Chỉ, Đại Việt và Đinh Hải, xung quanh có luỹ tre bao bọc và
đình Vọng Cố Hương, với kiến trúc trạm trổ rất tinh vi cùng nét hồi văn đời Hậu
Lý và Lý Long Tường mở trường dậy học và để lại bộ sách bằng chữ Nho, mô tả đời
sống xã hội nước ta vào thời ấy. Dòng họ Lý kéo dài ở đấy cho tới nay đã hơn
27 đời…hay nói khác đi là 27 thế hệ…” *** Một ngày ở Bình Nhưỡng,
Cao Ly vào năm 2075… Mới cuối thu sang đông,
thời tiết bỗng dưng trái gió trở chiều, đất với trời trên dưới toàn một mầu
xám chì thê lương, cụ Lý đi ra đi vào bần thần từ sế chiều đến giờ vì một
chuyện không đâu. Từ thư tịch của dòng họ Lý, cụ vô tình tìm ra được một bài
viết có cái tựa đề Hà Nội một thoáng hương
xưa của ông họ Phí. Đọc xong rồi cụ phân vân, bài tản bút chẳng đề ngày
tháng, ông này lại sính chữ, chữ nghiã cắt tiả như gọt củ thủy tiên, từng mầm
mới nhú, từng lọn lá non. Lại nữa, thổ ngơi người viết lại mịt mùng gió mây,
tuổi hạc đoán chừng đâu đó đồng tuế đồng canh với cụ bây giờ… Tay mân mê ly rượu, cụ
vu vơ xa gần: Đã gần một thế kỷ, như bị thôi thúc từ cầu sấm truyền “Lý đi rồi
Lý lại về” để cụ tẩn mẩn thoáng có một ý nghĩ: Mùa xuân này, cụ dẫn cô con
gái rượu của cụ về Hà Nội, thăm phần mộ gia tộc, nhà từ đường của tổ tiên,
cũng để cô Chiêu về với cội nguồn, đốt nén hương trầm cho mấy trăm năm cách
biệt của một dòng họ. Đôi ta lưu lạc phương đông
này Trải mấy mùa qua én nhạn
bay Xuân đến khắp trời hoa rượu
nở Mà ta với ngươi buồn vậy
thay (Nguyễn Bính) *** Một tối ở Quảng Bá, Hà Nội
vào năm 2075… Cụ Lý và cô Chiêu về đến
nhà từ đường thuộc chi cụ cố tổ Lý Long Tường của cụ bên Quảng Bá thì cũng đã
quá nửa khuya. Họ hàng xa gần, nhánh này, tông kia tấp nập đến thăm. Nên cả
hai, ba ngày sau, mặt trời ngang con sào, dưới mưa phùn gió bấc, cùng cái hiu
hiu lạnh cuối đông còn rơi rớt lại. Hai bố con cụ khoác áo mông tự bước ra
ngoài, thả bộ qua đầm Nghi Tàm, lần mò theo con đường làng khúc khuỷu, mái
tranh mảnh vườn, bờ mương ao cá, gì cũng lạ lẫm để đưa đẩy bố con cô Chiêu tới
một triền dốc thoai thoải lúc nào cũng chẳng hay. Vừa lững thững đi, chỉ khoảng
không gian trước mặt, cụ vừa nói chuyện với con như nói chuyện với một người
bạn vong niên lâu ngày không gặp: “ Nếu Thăng Long là nơi
chốn của nghìn năm văn vật thì Tây Hồ là đất văn học, tinh hoa phát tiết ở
vùng đất địa linh nhân kiệt này. Với tứ hồ bát cảnh, những áng thơ, những âm
hưởng của những cuộc tình ẩn mật trong sử sách, như những cụm mây chiều nổi
trôi rồi tan loãng. Tất cả quyện vào nhau cùng lối xưa xe ngựa cũ hồn thu thảo,
nền cũ lâu đài bóng tịch dương…Dưới bóng mát của một thời nho học, bà Huyện
Thanh Quan quê làng Nghi Tàm, theo chồng làm quan tận Đàng Trong. Cảnh đèo
Ngang bóng sế tà, không làm bà nguôi ngoai cảnh Tây Hồ với một vũng tang
thương nước lộn trời. Và bây giờ, hành cung Trấn Bắc không còn nữa, chỉ còn
ngôi chùa Trấn Quốc ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng ngậm ngùi bao lớp sóng
hưng phế… Lại nữa, thuở trời đất nổi
cơn gió bụi, khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên, chẳng ai biết, chẳng ai
hay ở nơi chốn này, có thêm phần mộ của bà Đoàn Thị Điểm. Bà theo chồng là
Nguyễn Kiều làm quan ở Nghệ An và mất ở đây. Thi hài bà mang về Văn Giang, xứ
Kinh Bắc. Nhưng đến Thăng Long, vì chiến chinh, giặc giã nên không đưa về được
quê bà, nên đành phải an táng ở Tây Hồ. Mộ chí của bà sau bị đất lở, đất chùi
nên nay không còn dấu tích. Nhưng năm 1982, mộ bà tình cờ được tìm ra ở dưới
một đống rác của làng Nghi Tàm. Năm 1593, Lê Thế Tông đặt
tên mới là Tây Hồ để có chuyện bà Nguyễn Thị Lộ với tôi ở Tây Hồ bán chiếu
gon, can chi ông hỏi hết hay còn. Qua mối tình già với cụ Nguyễn Trãi, hai
mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa, dưới ngọn đèn mờ, trong gian
nhà nhỏ. Hai mái đầu vừa bạc vừa xanh kề nhau than thở cho mai hậu. Như có ám
chướng cho cả hai qua câu thơ: “Mấy kẻ công danh nhàn lẵng đẵng - Mồ hoa
cỏ lục thấy ai đâu”. Cụ bâng quơ với con: “Với những đổi thay, đến đây thầy mới thầm
phục Nguyễn Huệ khi ngài có mặt ở Bắc Hà. Có một ông tiến sĩ họ Đỗ, để lấy lòng
vua Quang Trung, xin đổi hồ ra tên khác, ngài trả lời: “Tây Hồ là thắng cảnh của người Thăng
Long, người Thăng Long vẫn yêu mến và lưu luyến với Tây Hồ, lẽ nào nay vì trẫm
lại đổi tên hồ đươc. Khách Tây Sơn, cảnh Tây Hồ, cũng là duyên kỳ ngộ, cảnh
chẳng phụ người, làm sao người phụ cảnh”. Mà nhắc đến Nguyễn Huệ gốc
họ Hồ thì chẳng quên người em họ năm đời cùng một ông tổ là của ngài là bà Hồ
Xuân Hương”. Giọng cụ lại đều đều về một cõi xa xăm: “Qua tập Lưu Hương Ký vừa
được tìm thấy, người đọc được biết ở huyện Thọ Xương có gò đất tên núi Sưa,
dưới chân gò là một ngôi nhà ba gian lợp lá, nhìn ra Tây Hồ. Trước cửa treo tấm
biển, nét chữ thảo phóng túng, đề ba chữ “Cổ Nguyệt Đường”, nơi cụ Nguyễn Du
vẫn thường lui tới, để có một chuyện tình ba năm có lẻ với bà Hồ Xuân Hương ở
đây”. Cụ Lý thở ra: “Bà Hồ
Xuân Hương cũng giống bà Đoàn Thị Điểm. Bà theo chồng là Trần Phúc Hiển làm
quan tại Quảng Yên và mất ở đấy. Ba năm sau, di cốt đưa về chùa ở Tây Hồ, nay
mồ hoa cỏ lục của bà cũng chẳng thấy đâu. *** Hai bố con thong dong trên con đường nhân gian trước mặt. Ghé chùa Trấn
Quốc mà xưa kia vua Thiệu Trị tuần du Bắc Hà đã đổi tên là chùa Trấn Bắc. Cụ
lai quan quả đến bà Huyện Thanh Quan “Sóng lớp phế hưng coi đã rộn – Chuông hồi kim cổ lắng càng mau”. Cụ
thẫn thờ ngắm rặng liễu đang bay phơi phới cùng gió xuân, bên cành phan, cây
đại nở hoa trắng. Cụ bỗng hoà nhập thả hồn về một cõi xa xưa Lý,
Trần, Lê, Nguyễn. Cụ lặng người qua hình ảnh quanh cổng chùa, như một bức
tranh dân gian của một người viết nào đó: Có tiếng lao xao
cười nói, thiện nam tín nữ tấp nập đi lễ Thượng Nguyên. Những cô gái nón quai
thao, tua cũng bay như lá liễu, tay giữ quai nón, tay kia vung vẩy, văn hài
rón rén trên lối cỏ xanh. Thấy có chàng trai đi tới, cô thẹn thùng yểu điệu nấp
sau bóng mẹ, mặc ngoài áo lam giang, trong lót nền hồ thủy, vừa đi vưà lẩm nhẩm
nam mô, tay lần tràng hạt trước ngực, tiếng xà tích bạc lách cách như tiếng
nhạc ngựa và xa xa là bãi tầm Tang nuôi dâu, nuôi tằm của công chúa Từ Hoa…”. Tạt qua đền Trấn Vũ mà vua Minh Mạng đổi tên là Chân Vũ Quán. Cụ để cô
con ở ngoài và bước vào để xem bức tượng Huyền Thiên Chân Vũ Nguyên Quân. Tượng
đúc bằng đồng đen, mặt vuông chữ điền, râu dài, tóc xỏa ra sau đứng trên lưng
rùa, tay chống gươm thật oai phong lẫm liệt. Ra khỏi cổng, cụ bắt gặp cô con
gái đang háo hức ngồi đợi bánh tôm còn nằm trong chảo rán, sủi bọt kêu lách
tách như bong bóng mưa rào đầu mùa. Ngồi chưa nóng chỗ, cụ đã nghe cô Chiêu hỏi: - Thưa thầy, con muốn hỏi thầy chuyện này: chỉ có một mảng Hồ Tây không
thôi, sao thầy lan man hết cung này đến phủ kia. Mệt chết thầy ạ. Cụ Lý chậm rãi: - Thầy Trang Tử đã nói: “Con ếch ngồi trong đáy giếng, làm sao nói được
chuyện biển cả. Con bướm không sống qua khỏi một mùa đông, làm sao nói được cảnh
tuyết rơi. Vì nó không biết gì xa hơn đời nó…” Ngừng một chút, cụ trầm ngâm: - Thầy như con ếch, ngồi mãi cũng chồn cẳng, nhẩy tới nhẩy lui, kêu
vài tiếng cho đỡ buồn. Như con bướm, không bay tới bay lui, đậu mãi một chỗ, cũng
nhạt nhòa hương phấn. Nhấp ngụm nước, cụ thong thả: - Hồ Tây chẳng của riêng ai, có khô có cạn, khi đục khi trong. Con đường
Cổ Ngư thật ngắn ngủi, mà ở nơi chốn ấy, con đã gặp bao tiền nhân với vang bóng
một thời như bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Thị Lộ, Hồ Xuân Hương.
Ngần ngừ một lát: - Như con biết đấy,… *** Cụ ngẩng mặt lên trời như nhìn mây bay rồi từ tốn: “Như đất Lĩnh Nam ta xưa, chỉ là một làng chài lưới, leo teo có khoảng
hơn chục nóc gia, lặng lờ bên sông Tô Lịch, có tên là làng Vạn Xuân. Theo thời
gian phát triển thành huyện Tống Bình. Tới thời kỳ Bắc thuộc 544, cụ cố tổ Lý
Nam Đế ta mà dân gian gọi Lý Bí. Cụ đánh đuổi được quan quân nhà Lương, đặt
quốc hiệu là Vạn Xuân, chọn khỏang đất này dựng lên thành Long Biên. Cụ cho xây
chùa Khai Quốc, sau vì lụt lội, dời về Tây Hồ và đổi tên là Trấn Quốc, tức phần
ngoài của thành Đại La...Thành này dựng lên từ năm 860 Cao Biền làm An Nam tiết
độ sứ, là người thông thạo địa lý và phong thủy, Cao Biền đi khắp nơi, tìm đất
đặt nền móng cơ sở. Đến vùng Tây Hồ này, xưa kia là rừng hoang, đầm lầy mà
cáo hay về nên được gọi là đầm Thây Cáo, sau có tên là Dâm Đàm, nghĩa là hồ
mù sương. Nhân mùa thu năm 1010, tiên đế Lý Thái Tổ ta về Cổ Pháp thăm quê. Nghe
lời khuyên của sư Vạn Hạnh rời đô về thành Đại La, thế đất tương đối cao, rộng
và bằng phẳng và đổi tên là thành Thăng Long. Chung quanh thành có ba con
sông là sông Hồng Hà, Tô Lịch và Kim Ngưu. Riêng khúc sông Hồng bao quanh Thăng
Long, được đắp đê như “vành tai”, nên còn có tên là Nhĩ Hà, sau này cư dân gọi
chệch đi là Nhị Hà. Năm 1475 đê vỡ, cả kinh thành Thăng Long lụt lội ngập dưới
nước, thành được đắp cao hơn một chút. Thêm một lần chúa Trịnh đánh nhau với
nhà Mạc, chúa cho đốt Thăng Long, khói lửa ngập trời cả tháng, rồi đến vua Lê
đốt phủ chúa Trịnh. Vì chiến tranh, hỏa tai, lụt lội và đất bồi từ sông Hồng bao
thế kỷ nên một phần phế tích của Hòang thành sau này nằm sâu trong đất bùn. Tuy
vậy, cư dân đời Lý ta có lúc lên tới bốn chục nghìn. Sách An Nam Ký truyện của
sứ thần Trung Hoa đã miêu tả: Từ cửa Đông Hà Môn, phải chen
chúc, chật vật len lỏi lắm mới tới được bến cảng, thuyền bè tấp nập đi lại
trên sông Hồng như lá tre”. Cụ thao tác: “Thời Nguyễn, Gia Long rời đô vào Huế, thu hẹp Hòang Thành
lại, phá cổng Quảng Phúc, Tường Phù, nay vẫn còn mảng tường nhỏ nằm ở số 38B phố
Hàng Đường, chỉ giữ lại cửa Diệu Đức tức Bắc Môn Tự và đổi tên Thăng Long là
Bắc Thành. Năm Giáp Tuất, cụ Nguyễn Du dẫn đòan tuế cống từ Yên Kinh về đến Trấn
Bắc Thành, qua bài Sở kiến hành cụ
viết:
Tới cửa Bắc Môn,
hai tên lính áo vải đen, trong lót vải vàng, tay chẽn khố lục thắt ngang
lưng, xét người ra vào. Thấy bản chức mặc áo lương khăn lượt, chúng cầm giáo
ngăn lại. Nhưng khi bản chức nhận là Cẩn Chánh học sĩ Du Đức hầu, chánh sứ
đòan tuế cống sang Bắc quốc về, thì chúng mặt tái xanh như chàm đổ, vội thả
điếu kiều cho đoàn cống sứ vào. Trong Hòang Thành, điện Càn Nguyên, dấu vết
cung điện cũ của vua Lê, nay đã hoang tàn đổ nát, gò đất cỏ mọc um tùm. Về hướng
điện Giảng Võ, nơi có đài cao bốn từng mà vua Lê dựng để quan sát quân sĩ tập
luyện ngày xưa, nay cũng tang thương lặng lẽ. Qua cổng Đoan Môn, đi theo đường
vòng là tới Cấm Thành… Trở lại nhà Nguyễn, sau khi sẩy ra vụ con nuôi của Lê Văn Duyệt làm lọan,
Minh Mạng cho thu hẹp thành Trấn Biên ở Gia định. Để tránh hậu họan như vừa
nói, năm 1831, Minh Mạng cho thu gọn Bắc Thành lại một lần nữa, vì thành nằm…“trong”
khu vực Hồng “Hà” nên đổi tên là…Hà Nội. Ngọai thành thời Lý ta có 61 phố phường.
Đời Lê thu gọn lại còn 36. Phường là làng nghề. Như phường Yên Thái làm giấy,
Tây Hồ dệt chiếu, Nghi Tàm nuôi tằm. Phố chỉ nơi buôn bán. Thời ấy phố là đường
đất mươi thước, có một hai cửa hiệu, bán gì tên nấy, hai phố tiên khởi là phố
Hàng Bừa, phố Hàng Cuốc. Người của 36 phố phường được gọi là Kẻ Chợ, để phân
biệt với Kẻ quê ở thôn dã”. *** Nói đến chợ búa, cụ Lý cảm thấy bụng dạ nao nao, nhìn qua bên kia đường,
từng mảng nắng lung linh ẩn hiện qua tàng cây như những con đom đóm ngàỵ Dưới gốc cầy bàng già cỗi là một quán lợp tranh,
lơ thơ vài nải chuối ngự, ít bánh đa vừng, dăm cái kẹo lạc. Như có gì mời gọi, cụ rảo bước qua đường…và chủ quán là một bà ở cái
tuổi hoa niên, tóc lấm tấm điểm sương. Bà vừa nhai trầu bỏm bẻm, vừa bưng bát
chè vối tẩm lá bàng nóng hôi hổi mời cụ. Trời đất hây hây lạnh, cụ cảm thấy thấy
thật ấm áp cũng như ấm lòng. Để chóng nguội, cụ thổi nhẹ, mặt nước nâu vàng
lung linh gợn sóng, bốc mùi vối và lá bàng thơm ngát. Nhấp từng ngụm nhỏ,
hương vị chát chát chua chua bám vào đầu lưỡi. Cụ uông đến đâu thấm dần đến
đó, dịu và êm, ngai ngái, nồng nàn và đằm thắm chan chứa hơi hướng quê nhà
cùng hoa xuân nở muộn. Thoáng dường như chén trà đang đợi gió nồm, gió hanh để
gợn sóng mà cụ không hay đấy thôi…Y như rằng lúc đứng dậy gửi tiền. Bà hàng
nước ngước nhìn, tủm tỉm cười, sua tay không nhận, nhưng khoé mắt hình như có
đuôi và sắc như dao cau. Trong cụ như mang mang vấn vương…chiếc khăn mỏ quạ,
áo sồi, quần thâm cùng hàm răng hạt huyền, man mác mộc mạc và chân quê của
hương đồng cỏ nội. Trở lại với cô con, những chiếc bánh tôm vừa chín tới, vàng ngậy dòn
thơm, với rau Láng thượng, ngọn diếp Láng hạ, cô đang chấm nước mắm ngâm đu đủ,
cà rốt ngâm dấm thanh mà người Hà Nội gọi là nước mắm chua. Nhìn cô út sì sụp
húp nước mắm thật bình dị, đó cũng là lý do cụ đưa cô về thăm đất tổ, gần gũi
với cội nguồn, để hoa chanh nở giữa vườn chanh. Đang miên man thì cô Chiêu cũng
vừa xong bữa, cô nhẹ nhàng nắm tay bố và khẽ hỏi khẽ: “Bây giờ, mình đi đâu
thầy”. Cụ trả lời: “Chiều nay, ta vào Văn Miếu”. *** Vừa rời con đường Cổ Ngư…Khi không cụ Lý quay đầu lại nhìn con đường
xưa lối cũ cụ rù rì với cô Chiêu: “Thầy giải bày thế này chẳng hay có đúng
chăng? Vì cứ theo các cụ ta nói lại trước kia chỉ có…một Tây Hồ. Sau người
quan ngoại làm con đường này như cái đê để nối qua Nghi Tàm, Quảng Bá nên mới
có hồ Tây, hồ Trúc Bạch. Giải đất bên kia như cái đầu ngựa, con đường lại giống
như…”cổ ngựa” nên dân tình gọi trại là…Cổ Ngư”. Nhìn lên bầu trời với những đám mây thấp mầu xám chì. Chỉ hướng trước
mặt, cụ Lý tiếp tục thủ thỉ với cô con: “Cách đây một khỏang ngắn, bên tay mặt
là Chùa Một Cột, thầy không đưa con vào vì chùa nay không còn rộng lớn như thời
nhà Lý ta nữa”. Bước qua Văn Miếu môn, cụ
lắng đọng trong không gian tĩnh mịch một thời với thi văn Tao Đàn của vua Lê
cùng nhị thập bát tú trên điện Khuê Vân Các cổ kính và trầm mặc. Dọc theo lối
đi là hàng cây đại thụ rợp bóng mát, bao bọc chung quanh tường loang lổ rêu
phong ẩm thấp. Vào sâu bên qua khúc sân khỏang khóat là dẫy bia đá đang trơ
gan cùng tuế nguyệt. Cụ và cô Chiêu, một già một trẻ, chậm rãi lặng lẽ sánh
bước bên nhau, tần ngần ngừng lại ở mỗi tấm bia chơ vơ và u tịch, như đi tìm
một dấu ấn của gia tộc. Giọng trầm hẳn xuống xa
vắng với cô con: “ 1323 vi tiến sĩ nằm
đây dãi gió dầm sương, đã một lần làm nhân chứng cho một kỳ án trong văn học:
Thống nhất sơn hà xong, Gia Long bắt một số sĩ phu Bắc Hà giao cho Đặng Trần
Thường xét sử, trong đó có Ngô Thì Nhậm. Hai ông là bạn với nhau từ nhỏ, cũng
là học trò cùng một thầy. Sau trên con đường hoạn lộ trở thành đối nghịch vì
kẻ ở lại Bắc, người suôi Nam. Giữa cửa Khổng sân Trình, họ Đặng ra câu đối: “Ai
công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biêt ai”. Ngô Thì Nhậm bình thản đối lại: “Thế
Chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế”. Sau đấy, Đặng Trần Thường mang Ngô Thời
Nhậm căng ra ra giữa sân Văn Miếu đánh cho đến chêt “. Cụ thở ra: “Bây giờ là
năm 2075, một trăm năm sau vẫn còn phân cách, oán hận, nào có khác gi Trịnh
Nguyễn. Sau cuộc nội chiến Bắc Nam 75, đất nước đã chung về một mối. Thế
nhưng mỗi nơi một ngả, lòng dân phân hóa qua trại tập trung cải tạo nào có
khác gì họ Đặng trả thù họ Ngô. Ngẫm cho cùng, thầy thấy người Bắc Hà lúc ấy họ
làm vậy là không phải, lòng người lại càng chia năm sẻ bẩy, chẳng ích lợi gì
cho quốc sự. Họ chỉ biết trách người xưa là phong kiến, nhưng cả mấy trăm năm
sau họ còn phong kiến hơn thời nào hết. Họ chẳng nhìn lại quá khứ và tự trách
chính họ như chuyện đốt sách vở…”. Giọng cụ trầm hẳn xuống: “Con thử ngẫm mà
xem, cả trăm năm năm trước đã có người dùng
dao khắc trên đá thì với trăm năm sau, các sử quan sẽ viết gì về họ trên
giấy thô mực cạn!”. *** Trời càng về chiều càng
hiu hiu lạnh, như thiếu vắng nao nao, chợt nhớ ra từ trưa đến giờ, ngoài bát
nước vối chưa có gì dằn bụng. Hai bố con lần mò về phố Hàng Cân tới quán Lã Vọng.
Chọn được cái bàn gần cửa sổ, vừa ăn hai bố con vừa rì rầm nói chuyện. Cô Chiêu nhìn ra ngoài,
cây bàng trước cửa chĩu cành, vắt ngang qua mái âm dương, lá to gần bằng chiếc
quạt nan đầy gợi cảm. Và cô hình tượng những năm tháng của lá giao mùa, từ mầu
xanh cuối hạ chuyển qua mầu vàng rơm, có khi qua mầu đất đỏ nâu sậm để lià
cành theo gió bay xa...Đột nhiên cô hỏi: “Thầy à, sao lại gọi là…cây bàng mồ
côi “. Đang trầm ngâm chuyện thế sự du du hề một thoáng bạch câu, cụ bật cười:
“Cây bàng mồ côi ấy nằm trong bài thơ có cái tựa “Không Đề” của Quang Dũng. Mấy
ông thi sĩ Bắc Hà ta ngồi không nên rách chuyện vậy thôi “. Gắp miếng chả cá thơm phức
vào bát, cụ khoa đũa với cô con về…cây hoa sữa: “Chúa Nguyễn cầu viện
Xiêm La bị Nguyễn Huệ phục binh ở Xoài Mít đánh tan. Quân Xiêm thần phục, đợi
ngài xưng vương ra thăm Bắc Hà triều cống một loại cây lạ và trồng ở khu nhà
công quán do vua Trần Dụ Tông dựng để tiếp các sứ thần Trung Hoa, Chiêm
Thành, Chân Lạp, Đại Lý, nên được gọi là sứ quán. Sau thờ Minh Không thiền sư
đổi tên là chùa Quán Sứ. Vì hoa trắng như sữa, sứ thần Trung Hoa gọi là mộc
tê, tê nghĩa là sữa. Người Hà Nội đưa vào văn chương chữ nghĩa gọi văn vẻ...ra
vẻ Hà Nội là…hoa sữa”. *** Xong bữa, hai bố con lại
rong ruổi trên những con đường Hà Nội xưa kia lát đá xanh. Đứng trước Băc
môn, đường Phan Đình Phùng, có dấu vết hai vết đạn thần công của người quan
ngoại để lại. Cô Chiêu hỏi cụ Lý những
thăng trầm của thành Hà Nội. Cụ ậm ừ: “Năm 1888, Tổng Tài người
quan ngọai ra sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội. Họ bắt đầu lập đường xá
tráng nhựa, khu phố cổ Hà Nội khởi đầu bằng vào hai phố Hàng Buồm và Hàng Đường.
Họ phải mất ba năm, từ năm 1894 đến 1897 để đập phá Bắc Thành. San bằng điện
Khán Sơn tạo dựng khu phố Tây, cổ thành làm trại lính. Cửa ngõ vào Hà Nội
cũng vậy, trước thế kỷ 20 có 16 cửa ô. Họ chỉ giữ 5 cửa ô có trạm gác, hào
chông bao bọc là ô Chợ Dừa, Đống Mác, Cầu Rền, Cầu Giấy và Quan Chưởng”. Cụ nắm tay con, xuống giọng: “Qua đến thập niên 40, Hà Nội 36 phố phường với Thạch Lam cùng “Yêu mến
Hà Nội với tâm hồn người Hà Nội” với ông đồ vẫn ngồi đấy, qua đường không ai
hay, lá vàng rơi trên giấy, ngoài trời mưa bụi bay. Nên Thạch Lam đã quan
hoài: Chúng ta không biết được mấy về dĩ vãng, về phố xá kinh thành hồi cụ
Lãn Ông, một túi thơ, một bồ thuốc, từ Bát Tràng đến Thăng Long thành bốc thuốc
ở Vạn Thảo Đường phố Hàng Ngang, chữ
son sắc nước đỏ tươi, bay bướm nửa chân nửa lệ. Bây giờ ở phố Hàng Đường, cũng
có ba chữ Vạn Thảo Đường, nhưng được viết bằng lối chữ vuông tân thời. Vũ
Bằng lãng đãng, xô bụi: Hà Nội
với những bước gập ghềnh, hẫng hụt, có ngõ Văn Chương thì phải có ngõ Trạng
Trình, thêm ngõ Cấm Chỉ thì không thể vắng bóng ngõ Tạm Thương. Nửa khuya quá giấc, tiếng hai khúc tre gộc gõ nhịp
một của ông Tầu tẩm quất, bà xẩm già, nghe buồn nẫu ruột…. Cô Chiêu nheo mắt, cười tủm và nhấm nhẳng hỏi bố: “Cớ sự gì lại gọi là
phố Hàng Ngang và ngõ…Tạm Thương, thưa thầy”. Cụ Lý húng hắng ho và khật khừ
đáp: “Chả là thời vua Lê chúa Trịnh mở phố Hiến để người quan ngoại không được
hẻo lánh tới Thăng Long nhòm ngó chuyện triều chính. Thế nên ở Hưng Yên có Phố
Khách tập trung người Hoa vì nhà chúa xem họ như…khách trú. Ở Thăng Long cũng vậy, người Quảng Đông được tập trung
ở một con đường trong khu Phố Cổ ngày nay. Tuy nhiên đến đêm nhà chúa cho kéo
hàng rào ngựa gỗ chắn…”ngang” con đường này. Vì lẽ đó, được gọi là phố Hàng
Ngang hay phố Quảng Đông. Riêng ngõ
Tạm Thương mới có tên gần đây thôi. Vì gần nhà thương, họ cho đặt…tạm mấy
gian có giường cho con bệnh nằm đợi vào nhà thương nên mới có cái tên tình tự…Tạm
Thương ấy mà”. *** Sáng hôm sau nắng ráo, cô Chiêu thưa với bố muốn đi thăm Hồ Gươm. Cụ
râm ran thăm hồ Hoàn Kiếm nên đến vào mùa nắng, để thấy những cành phượng đong
đưa trước gió, vắt ngang ngang Tháp Rùa, như bức tranh thủy mặc. Hay tháng
năm với cây gạo hoa đỏ, đỏ ối cả một vùng trời. Những cây đa, cây đề, cây
sung, cây sấu, quanh hồ văng vẳng tiếng ve sầu ra rả suốt những ngày tháng hạ... Đi trên đường, khoác vai cô con, cụ
như lạc đường vào lịch sử: “Từ đời Lý, hồ có tên là Lục Thủy vì nước hồ mầu xanh biếc. Đến đời Trần,
vua quan hay ra đây câu như Lã Vọng nên hồ có tên là hồ Tả Vọng. Theo hình vẽ
năm 1810 vào thời Gia Long, hồ có một nhánh sông chẩy vào. Vì chưa được lấp nên
mỗi lần mùa nước lũ, lụt lội, hồ có một số sinh vật bị kẹt lại, trong đó là
rùa. Hay ba biêu, ba ba, mép xanh như cọng rau, Hoặc con nhệch, con giải, bốn
chân mầu vàng nghệ. Còn rùa ngày nay do thập phương tín nử thả phóng sinh lấy
phúc chỉ to bằng cái rá vo gạo là nhiều”. Cụ khe khẽ lắc đầu, nói với cô con như nói với chính mình: “Từ lâu thầy có một chút phân vân là rất nhiều văn nhân tài tử viết về
Tây Hồ như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà. Nhất là Nguyễn Du, bà Hồ
Xuân Hương quen thuộc và gần gũi với Thăng Long, đó là chưa kể Nguyễn Trãi với
bà Huyện Thanh Quan. Nhưng lạ một điều là chẳng một
ai nhắc đến...hồ Hòan Kiếm. Cụ Hải Thượng Lãn Ông qua Thượng
kinh ký sự, vì cụ chữa bệnh cho Trịnh Căn tại phủ chúa cả mấy tháng, hang
cùng ngõ hẻm nào cụ cũng trải dài trên giấy trắng mực đen: Vừa qua núi đá ở giữa
hồ, ánh trời sắc nước, long lanh gợn sóng, đàn cò uyên ương đang lượn lờ bãi
nước trên hồ, Ngoài bờ, một dẫy lâu đài, tiếng hát lướt trong bóng chiều, cỏ hoa
đua tươi, khoe hồng phô biếc. Tôi ngồi trong thuyền như khuấy động, nhìn xa
xa thấy một điện gác nguy nga, sau bóng râm um tùm, thấp thoáng khi ẩn khi hiện,
chuông chùa khua rộn, như giục mặt trời lặn đi. Tôi bảo chèo thuyền tới, mới
biết đó là chùa Trấn Quốc. Qua thiên ký sự dầy cả chục trang, thầy cũng không
thấy một chữ về hồ Gươm. Đến Trịnh Nguyễn diễn chí của
Nguyễn Khoa Chiêm, cả trăm truyện dân gian được kể lại thời vua Lê chúa Trịnh,
duy nhất có dăm hàng: Trong
khi vua Lê Trung Hưng vẫn ngồi trên hư vị ở Hòang Thành cũ, có đổ nát đi hơn
là xây dựng thêm. Vậy mà chúa Trịnh xây Phụng Thiên phủ và Vương phủ riêng cho
mình ở hai bên tả hữu Vọng Hồ…. Cụ Lý thở ra: “Như vậy hồ được gọi là Vọng Hồ có từ
thời Lê mạt, và cái tên Hòan Kiếm chưa xuất hiện. Sách Tang thương ngẫu lục đời Gia Long ghi vắn tắt: Hồ thông với nước ngoài sông nơi Lê Thái
Tổ đánh …rơi kiếm. Và lạ hơn nữa là qua mấy triều Lê,
không một vị vua nào trùng tu di tích hồ Hòan Kiếm của tiên đế. Chưa hết, đoạn
viết trong Lam Sơn thực lục tức
chính sử của nhà Lê được lược dịch lại nghe cũng mất nhiều ý nghĩa như sau: Lê Lợi…nhặt được
thanh bảo kiếm ở dưới gốc cây đa, Lê Lợi nghĩ rằng trời cho thanh cổ kiếm, từ
đó mới nuôi ý nghĩa khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh và lên làm vua lấy hiệu là
Lê Thái Tổ, lập ra nhà Hậu Lê (1428-1788). Dẹp xong giặc, Lê Lợi giữ luôn
thanh kiếm, một hôm vua dạo thuyền trên hồ bị một con ba ba…“đòi” lại thanh
kiếm. Trở lại người quan ngọai ra sắc lệnh đặt tên cho thành phố Hà Nội và
Phạm Đình Bách là người vẽ bản đồ. Đến năm 1916 bản đồ được in ra và có ghi
chú bằng tiếng Pháp: Một hôm vua Lê
Thái Tổ…bắt được thanh kiếm ở bờ hồ. Sau lên làm vua, một hôm bơi thuyền dạo
chơi trên hồ, có một con rùa rất lớn bơi theo. Vua sợ quá rút kiếm đuổi rùa.
Con rùa đớp kiếm và lặn xuống nước. Từ đó đặt tên là hồ Hoàn Kiếm. *** Vừa đến nơi, cụ chỉ tay và nói có tên hồ Hoàn Kiếm, mới có tháp Rùa.
Tháp lặng lẽ như “đình quán” đứng tự…mấy trăm năm trên giải cồn đất. Cụ lòng vòng với cô con gái rượu: “Ấy đấy, theo sách Tang thương
ngẫu lục của Phạm Đình Hổ thì trên đảo không có đình quán nào cả như “đình chúa Trịnh” theo lời đồn đãi. Trước kia nguyên là đất tư
của chánh tổng Đông Thọ huyện Thọ Xương tên Nguyễn Bá Kim. Năm 1884, ông chánh
tổng ngắm miếng đất có dáng miệng con rồng nên cho xây cái tháp, định đem hài
cốt của bố ông táng vào đó. Ông theo đạo Thiên Chúa nên xây cái tháp theo kiểu
tháp chuông. Không có mái cong, không có lưỡng long chầu nguyệt của đền chùa
cổ xưa. Việc cải táng không thành. Ngôi tháp chơ vơ, vô hình chung có cái tên
là tháp Rùa đi vào…văn học sử nước nhà. Thầy được nhìn bức hình hồ Hòan Kiếm năm 1886 của bác sĩ Hocquard: Hồ giống một vũng nước, chung quanh eo sèo dăm cái nhà tranh vách đất
tiêu điều, thê lương, ảm đạm. Cầu…Thê Húc, thầy đóan chừng có từ thời Tự Đức
thì y hệt cái cầu ao phẳng lì, qua tấm hình thầy chỉ thấy nhăm tấm ván dầy thô
kệch, tấm còn tấm mất, chẳng sơn phết như ngày nay. Cầu ngày nay được người
quan ngoại làm nên và sơn đỏ năm 1916. Thầy lại lẩn thẩn không đâu về tháp
Rùa qua một nhà sử học. Rõ ra tháp do bá hộ Kim ở phố Hàng Khay khởi công xây
từ năm 1884 đến 1886 với kiến trúc “Gô-tích”. Bá hộ Kim biếu người quan ngoại
cái tháp ấy. Người quan ngoại thấy đảo chỉ lớn hơn chung quanh tháp mỗi bề
hai mét nên đắp đất nới rộng thêm ra. Cụ tiếp: “Hồ còn có gò đất
khác cách bờ mấy trăm thước, rộng bốn, năm sào và xưa kia gọi là Tượng Nhĩ
Sơn, tức núi tai voi. Gò có một gian miếu nhỏ bằng nứa lợp tranh thờ Hà Bá. Lý
Thái Tổ dời đô về Thăng Long đổi tên là núi Ngọc Tượng. Thời chúa Trịnh, người
Hoa Kiều xin phép sở quan, dựng ngôi đền nhỏ thờ Quan Công. Minh Mạng năm 1838,
có người làng Nhị Khê, hiệu Tín Trai bỏ tiền của ra để xây cất thêm đền thờ Đức
Thánh Trần, Lã Đồng Tân và điện Văn Xương Đế Quân, nơi các thầy đồ sau này
thường tới xin sâm trước khi đi thi và được đặt tên là Ngọc Sơn Từ. Đến đời Tự Đức 1865, nhà
nho Nguyễn văn Siêu, bắc cầu Thê Húc nối từ bờ ra đảo và dựng Tháp Bút và Đài
Nghiên. Tháp Bút là một phiến đá hình tháp như chiếc bút lông, trên mặt có ba
chữ “Tả thiên Thanh”, nghĩa đen là “vẽ lên trời xanh” trích trong câu thơ “Lăng tàng trường kiếm ỷ thanh thiên” của
cụ Nguyễn Du. Nghĩa bóng là nhắc đến vua Quang Trung đánh bại vua Tầu nhà
Thanh với “Tả Thanh thiên tử”. Đài Nghiên bằng đá, hình nửa quả đào, thành
nghiên khắc một bài phú nói về nghiệp bút nghiên của nhà nho thời ấy”. Cụ chiêu hồn qúa khứ qua
Tháp Bút. Cụ đốt lò hương cũ với hình ảnh của ông đồ gìà của trời xuân năm
cũ, ung dung tự tại giữa những hàng câu đối phất phơ trước gió. Để rồi vàng
bay mấy lá năm già nửa cùng bút khô, mực nẻ, giấy đỏ, hồ tàn. Nào cụ có khác
gì ông đồ lỡ vận, hiu hắt giữa mưa bụi giăng mờ, lững lờ cùng chung một dòng
sinh mệnh với cảnh hồ, để rồi tất cả đi vào quên lãng…Cụ miên man, trải qua
bao triều đại thăng trầm, nơi chốn này ngay giữa cố đô Thăng Long, hồ Gươm đã
không có chỗ đứng đúng nghiã như Tây Hồ trong văn học. Thế nên lúc nào trông
cũng có nét trầm mặc u buồn. *** Hà Nội như thiếu nữ ngủ
ngày, với mưa phùn gió bấc, cùng cái liu riu lạnh cuối đông rơi rớt, vướng
víu. Những ngày còn lại, ngày nào cũng vậy, cô Chiêu khoác áo mông tự bước ra
ngoài. Trên con đường làng đong đưa những cành ổi mỡ đang đơm nụ, thoang thỏang
thơm mùi lá non. Ẩn hiện đâu đầy là mấy khóm tre hóa, tre gai dầy đặc. Đây lối
hoa vàng rơi, kia gió ven bờ đê, chẳng hẳn là con đường tình ta đi…Cô thầm nhủ
với nỗi xót xa, cho đến tuổi này, cô vẫn chưa có một cuộc tình nào ra hồn để
văt vai, đi về chỉ lẻ bóng. Sáng nay, mưa xuân lấm tấm,
lặng lẽ cùng những bước đi không định hướng, qua chùa Trấn Quốc trong mờ
sương, tiêu điều và hiu quạnh…Những hạt mưa bụi lất phất trước mặt đan vào
nhau như nhện giăng tơ, mờ nhạt và…Hình như đằng kia, ẩn hiện hàng quán Cổ
Ngư hôm nào qua bát nước mắm chua, đu đủ dầm, cay cay ngọt ngọt, con tôm vàng
ngậỵ Cô thủng thẳng ngồi xuống ghế, lơ
đãng nhìn qua bên kia đường là quán nước có dăm cái lá bàng hiu hắt treo phất
phơ trước gió. Cô thấy cụ Lý, hai tay
đang bưng bát nước vối… Buổi tối trước khi một
mình về lại Bình Nhưỡg, hai bố con lục đục, mầy mò đến quá nửa khuya. Sáng
hôm sau, cô rời hồ Quảng Bá, chùm ổi đầu mùa. Đầm Nghi Tàm, chuông chùa tan
loãng cùng hư không. Đến con dốc đầu Cổ Ngư, cô tần ngần tiếc nuối. Chùa Trấn
Quốc đây rồi, cây hoa sữa trắng vẫn trắng trong mù sương. Chỉ riêng quán nước
vối bên đường, dường như trống vắng. Thiếu vắng cả mấy cái lá bàng vàng úa… Cô thẫn thờ giã từ Thăng
Long hoài cổ với nghìn năm mây bay, để lại một Hà Nội trong sương mù của
riêng bố cô với đường mưa ướt đất. *** Trên máy bay, trong khoảng
không, giữa trời và đất, cô mở thư cụ Lý ra đọc. Không ngoài khúc chót
trong bài thơ của Quang Dũng với cái tựa “Không Đề”, ở khúc cuối của tận
cùng, cô đọng trong tĩnh lặng: Ơi, con đường xưa Những mùa trút lá Cành bàng mồ côi Cổng cũ rêu phong Ý đợi người
Trúc
gia trang
Canh dần niên 2010
Phí Ngọc Hùng Nguồn: Bài viết được góp
nhặt qua những tác giả:
Hải Thượng Lãn Ông, Ngô Sĩ Liên, Trần Quốc Vượng, Hòai Anh, Hòang Hữu
Qúynh, Lê Huy Oánh, Nguyễn Dư, Nga Sơn. |
|