|
Tôi bắt đầu chuyện viết lách như cái nghiệp dư vào
cái tuổi có hơi trễ nải. Vào cái lúc những người khác đã bẻ bút cáo lão về
hưu, thong dong với ngày trời tháng Bụt thì tôi lực đực với cái bàn gõ và gõ
lóc cóc như…mõ sớm chuông chiều. Chẳng phải là nhà văn, không dây dưa với những
câu hỏi cùm nụm cùm nựu là viết cho ai? Viết để làm gì?. Thú thực một điều,
tôi viết để giối già và tự cảm thấy thích viết vậy thôi. Vậy mà bạn bè vẫn
hay nắc nỏm hỏi là chuyện có thật không? Nói cho ngay, tôi lấy cái thật của
mình để làm cái giả và lộng giả thành
chân là thế. Hoặc như gặp bằng hữu trong lúc tửu lạc vong bần, rồi góp nhặt
sỏi đá qua những chuyện họ kể lể, hiểu theo nghĩa chẳng là như thị ngã văn. Lại nữa, có một dạo
tôi giống cái đèn cù xoay quanh những nhớ thương, tiếc nuối không đâu. Tôi cứ
để hồn vía đi tận đẩu tận đâu qua Một
hình bóng cũ. Một bản nhạc xưa. Những mất mát đau thương. Những đất khách bơ
vơ. Bây giờ thì
tôi chán…hoang tưởng lắm rồi. Thế
nên gần đây, tôi thai nghén…một truyện
ngắn có thật. Một nhẽ khác nữa là trào lưu văn học
hôm nay, có hội chứng cho rằng người viết ngòai nước như bật ra khỏi cái gốc,
cái rễ của cây đa bến cũ, con đò xưa, nên đánh mất bản sắc, chữ nghĩa đầy rẫy
những tha hóa vong thân. Vì vậy tôi đành khăn gói gió đưa về tận quê nhà,
nghe tận tai, nhìn tận mắt, hiểu theo nghĩa là tận mục sở thị chứ chẳng phải
là dệt chuyện. Thế nên mới có bài viết này đây, thưa bạn đọc… *** Suối Mơ, mùng 5 tháng 5 năm 2004. Cũng là ngày giết sâu bọ, cũng là
ngày, tháng tôi sinh ra đời để có mặt trong cõi nhân gian phù thế này. Bây giờ
ngồi trong phòng máy lạnh bên bờ biển Đại Lãnh với cái máy vi tính xách tay,
tôi đang thừ người ra đi tìm một cốt truyện cho một chuyến đi. Chợt nhớ ra một
nhà văn thành danh đã dặn dò: “Cốt truyện có ở mọi nơi mọi chỗ. Bạn
hãy nhìn vào bức tường này. Ai cũng biết ở đấy chẳng có gì cả. Nhưng bạn hãy
nhìn kỹ vào đó. Hãy tìm ở đấy một cái gì của riêng mình. Một cái gì đó không
ai thấy được. Bạn hãy viết ra. Xin cứ tin điều tôi nói: Bấy giờ thế nào cũng
có một truyện ngắn…”. Như một thiền sư đang thiền quán, thiền
định vào một cái vòng tròn to bằng hạt cát.
Và đợi vòng tròn mổi lúc một bự sự bằng hòn sỏi, hòn đá, rồi to đùng bằng
núi Tu Di. Ấy là thiền sư đã đạt, đã ngộ. Riêng tôi, tôi cũng đang chòm hõm
nhòm vào cái vòng tròn không tưởng trên vách của khách sạn để đi tìm cái của riêng mình. Thế nhưng một cái gì đó không ai thấy được càng
ngày càng nhỏ lại như cái vòng kim cô bó chặt cái đầu. Nói cho ngay là tôi
đang bí đặc bí lù, vẫn chưa có một cốt truyện nào ra hồn để vắt vai... Nhòm ra ngòai cửa sổ, tự xa xa tôi bắt
gặp con suối, vắt ngang là một cái cầu
khỉ và bên kia có một mái chùa chơ vơ cạnh vách núi…Đang rách chuyện,
nghe láo quáo nơi ấy có cái chùa nhỏ của một ông sư mới xuống tóc, khóac áo
già lam, tập đời chay tịnh để tìm về bến giác. Thấy tận mắt khung cảnh thanh
tịnh và hoang vu ít…thấy. Tôi trộm nghĩ, cái người hợp với cảnh chùa đó, ắt
phải là tôi, chứ còn ai trồng khoai đất này. Nên bật ra cái ý đồ là xin ông
sư trụ trì dưới kia, cho tôi một nơi chốn để ngồi thiền định và tiện cho việc
viết lách. Thế là tôi vớ dăm quyển sách làm tư liệu, dấm dúi vào cái ba lô
con cóc, hướng về bến bãi và bước qua cầu…nhập thế tục. Ngôi chùa nằm bên ven rừng, nhìn xuống
biển xanh ngát. Bất giác tôi cười vu vơ vì rõ ra chùa không ra chùa, nhà
không phải nhà. Vậy mà ngòai hành lang có treo một cái chuông và cái chày
kình đã lạc tinh như một món đồ cổ. Trên sườn núi, bên tảng đá thô, dưới cây
cổ thụ cành lá xum xuê, cũng có một vài cái cốc, cái am mái lợp lá dừa. Nhìn
vào, trên sàn đất trải chiếu, một bàn thờ nhỏ với tượng một ông Phật cũ kỹ mốc
meo. Lúc ấy, tôi xa vắng: Tượng gỗ chơ vơ ngồi đây mà Phật ở đâu…xa muôn
trùng. *** Riêng sư ông: Cắm trên cái cần cổ dài
ngoẵng là cái đầu tròn quay, ít tóc ngắn đang loay hoay nhú lên muốn góp mặt
với đời. Tôi ngáo ra nhòm bộ áo chòang rộng thùng thình, nhưng chẳng che dấu
được cái hình hài củ rũ như con cò ốm của ông. Được cái ông có cái trán nhẵn
bóng đầy ắp những thông tuệ, thông suốt, đôi mắt nhân hậu, như thể không thể
nhân hậu hơn. Và cái miệng lúc nào cũng cười cười, ắt hẳn bụng dạ ông có gì
vui lắm nên miệng cứ nở hoa. Chẳng dám gần chùa gọi Bụt bằng anh, rất Bắc kỳ,
tôi gọi ông lúc là sư bác, khi là sư ông. Ông cũng vậy, rất văn minh miệt vườn,
ông kêu tôi bằng…thầy, như…thầy bùa,…thầy chú. Bạn đọc nháy nhó nhau: Quái? Chùa
không ra chùa, sư chẳng ra sư. Bịa tạc chăng? Ấy đấy, tôi cũng chẳng hơn gì bạn,
ban đầu tôi cũng nghĩ như vậy. Chuyện là khi tôi hỏi sư bác cho tôi một chỗ
thanh tịnh để thiền quán. Sư hâm hâm rất ư thiền tính: “Nếu
tôi chỉ cho thầy nơi đó, thì chỗ ấy đâu còn…thanh tịnh nữa!”. Nghe chối tai làm sao đó! Nên tôi chưng hửng trông
thấy. Cùng lúc…trông thấy sư đang sửa soạn thọ trai. Chả nhẽ ít nữa ở đây
nhăn răng cạp đất, tôi ngứa mồm ngỏ lời xin được ăn đọt cây, uống nước suối của
nhà chùa…như sư. Chẳng khác gì vừa rồi tôi thuỗn mặt ngắm sư, ngắm chùa. Sư
nhìn tôi từ chân lên đầu, sư…ráo đầu tôi: “Đạo
tại tâm chứ không phải cảnh giới, hình hài hay nghi thức”. Xong, sư vô biên, vô lượng giảng hoằng pháp cho tôi
nghe như thế này đây, thưa bạn đọc, tin hay không tùy: “Xuất
thế gian mà không rời thế gian pháp. Chay mặn là ở thầy. Ngủ thầy nghĩ đến Phật.
Ăn thầy nghĩ đến Phật. Uống thầy nghĩ đến Phật. Ngay cả đi tiểu, đi tiện thầy
cũng nghĩ đến Phật. Tri nhi bất hạn, ngu xú bất cận, nếu thầy không chấp ngộ
được điều ấy thì thầy chẳng gần…Phật được đâu”. Nhòm nụ cười nở hoa của…Phật. Tôi im thin thít như thịt nấu đông! Cút phắt về tịnh cốc, tôi biết sư
không dở người…thì ra sư mượn đỡ câu ấy, thảng như tôi đã từng trong một công
án của một cổ lão thiền sư nào đấy. Nhớ lại, tôi chẳng nhớ mình cật lực nhập
thiền từ bao giờ qua sách báo, nhất là báo…chùa. Gặp là ngốn, là tụng, dễ hiểu
thì nhớ. Còn cái gì u u minh minh thì rơi rớt hồi nào chả hay…Ấy vậy mà cái đầu
đất sét của tôi nhuốm mùi thiền, nhật
tích nguyệt, thấm dần như những giọt nước mưa rơi lõm bõm liên tục, tạo
thành những lỗ, những hốc như trên phiến đá ngoài cửa am kia. Ngồi mé tảng
đá, dưới lùm cây xanh phủ lá…Nhìn vào rừng thẳm hun hút…Ngắm ra đại dương bao
la…Tôi thấy mọi chuyện nhỏ lại, và mọi thứ trên thế gian này chỉ còn là tiếng
gió xào xạc qua mái lá, cụm cỏ, thóang đãng và…vô ưu. *** Một ngày như mọi ngày, đến bữa ăn có
chú tiểu đem một phần cơm rau tập tàng bỏ trước cửa cốc, lấy đũa gõ nhẹ lách
cách rồi lặng lẽ bỏ đi. Cơm chay đạm bạc nhưng cũng chẳng đến nỗi nào như ăn
cá bị chứng hóc xương. Tôi cố gắng nuốt một ngày một bữa như sư, nếu ăn cơm
không hết thì để ở cửa. Ở đấy có cả một bầy khỉ, nào ông nội, bà ngọai, chú
dì cô bác, họ hàng hang hốc nhà khỉ dành ăn kêu chí choé. Trừ một con khỉ đã
già, đã khọm, lần mò tới ngồi bên cửa chăm chú dòm tôi đang đọc sách. Nó là
giống khỉ đít đỏ mầu nâu sẫm, chứ không phải là…mầu xám u ám của cảnh chùa. Tả chân về nó cũng dễ thôi: Nó có cái
mặt ốc tiêu thu lu trong đám lông lưa thưa, khiến ai cũng thấy thấy đôi mắt
tinh anh của nó với cái mũi chun chun rất…khỉ. Cái đuôi ngắn ngủn như cái chổi
cùn, lúc nào cũng khoe khuẩy một cách tháo động. Nói chung thì với bộ lông
thưa thớt, không che dấu nổi lớp da mốc bạc vì mưa nắng cùng cái tuổi…lá vàng
với rừng lá thay chưa. Cũng có thể vì vậy, nó lười biếng không dành ăn với
đám trẻ, thản nhiên dòm…tôi, rồi từ từ tới sát và đưa tay ra khều tôi làm
quen. Quen rồi nó đưa tay khỉ của nó
lên tóc tôi, mầy mò tìm chấy, rận và bỏ vào miệng nhóp nhép. Bá ngọ nó chứ...Chẳng
lẽ có chấy rận thật. Tôi cũng thò tay lên đầu…như nó. Sế
trưa hôm sau, chú tiểu lên cốc nhắn sư bác thỉnh tôi xuống thọ trai và tụng
kinh chiều. Tôi dựa theo dốc đá, bám theo các thân cây lò dò xuống. Nó nhảy
qua nhăm nhánh cây để dẫn đường, đến một mõm đá, ngồi gãi đầu, gãi cằm, chờ
tôi. Khi đến cửa chùa, sư đã chờ sẵn, nó chạy tới nắm tay sư trụ trì lắc lắc
ra cái điều xập xoài chào hỏi. Sư gọi nó là…“Ngộ Không”. Bản lai diện mục, thấy mặt đặt tên, tôi gọi nó
là…Lão khọm. Tôi hỏi cớ sự gì nó có cái tên nghe
ngộ, sư cho biết trước nó ma lắm. Từ ngày thửa được cái tên đầy…thiền tính,
nó như…thuần tính hẳn ra, ai nó cũng kết thân, lại thích làm quen với…”ngộ
nhân” mới đến chùa…như tôi. Ngộ tiếng Bắc kỳ cũ còn có nghĩa là dở người, chẳng
giống ai. Thế nên mặt tôi bẹt ra như bánh đa nhúng nước, hay tôi cùng giuộc với
giống…khỉ. Sư làm như không hay, vì còn đang bận bịu với tích xưa. Chuyện Tu Bồ Đề tổ sư hỏi con khỉ dẫn
đường cho thầy Tam Tạng đi thỉnh kinh, lúc ấy còn là hầu vương, rằng:
“Ngươi ở đâu mà ra”. Hầu vương
thưa: “Nguyên nơi núi Hoa Quả có hòn đá lớn, kết tinh nhật nguyệt
lâu ngày, rồi một đêm mưa vang lên tiếng nổ, đá nứt hai và sinh ra tôi”. Nghe nói sư tổ tiếp “Vậy là thiên địa sinh ra
ngươi, thôi để ta đặt tên cho”. Sư
tổ gật gù “Ta đặt cho ngươi họ là Tôn, bỏ bộ khuyển,
còn chữ tử, chữ hệ, tức còn trẻ, còn khôn”. Sư tổ chép miệng: “Phật pháp có trí, tuệ, chơn, như, hải,
đĩnh, “ngộ”, v..v..Trong 12 chữ đó, tính tới tính lui thì ngươi nằm vào chữ
Ngộ, thôi thì ta đặt tên ngươi là…Ngộ Không”. Chả hiểu ăn mắm ăn muối gì, cái lưỡi
tôi đá cái miệng với sư rằng ắt hắn Ngộ Không là…không ngộ chăng? Vừa cãi
chày cãi cối xong thì có tiếng chày… *** Đến buổi lễ, lão khọm ra ngòai hiên,
điểm nhẹ vào tang chuông ba chày khai kinh. Trở vào ngồi bên sư, hai tay chống
thẳng, lúc ngẩng lên nhìn Phật rất nghiêm túc, khi mắt láo liên dòm tôi đang
kiết già gần đấy. Được đâu gần nửa cây nhang, lão chạy vung tán tàn khắp
chính điện, lạ một điều là lão không mó tới đĩa hoa quả, hay kêu “khẹc, khẹc”
ầm ĩ. Sư vừa hết kệ, lão khọm lại bò ra ngòai gõ chuông để báo hiệu hết một
tuần kinh. Xong lễ, chúng tôi dùng cơm chay, vừa ăn vừa nói chuyện đời…cho phải
đạo. Lão lại mò đến ngồi cạnh, kéo đầu tôi
xuống lần mò tìm chấy rận. Khỉ thật. Một lần khác, sau một cơn mưa…Gớm chửa!
Giời vừa mưa xong là ếch nhái đã nhẩy ra đường rồi: tôi bắt gặp lão đang ngồi
ngòai sân kiểu nước lụt. Lão ngồi đấy thuỗn mặt ra như rặn ỉa và bỏ mấy trái hột điều khô xuống vũng nước. Lát sau,
tay cầm khúc cây, để trái hột điều lên hòn đá đập đập, bỏ nhân vào miệng cắn
thử, ăn không được nhăn mặt nhổ cái toẹt. Rồi ngửa mặt lên trời nhìn chim rừng
bay vu vơ. Mới đầu tôi đồ là lão bỏ xuống nước cho mềm. Sau mới hay lão khôn
như rận là vốc cả nhúm, trái nào nổi không mó tới, trái nào chìm vớt lên, lại
biết kê trên đá cứng mà gõ như…gõ mõ.
Từ đấy tôi hiểu thế nào là sinh tồn của chúng sinh trong chốn ta bà này. Về am, tôi ngồi xuống bắt đầu viết
truyện con khỉ già…”gõ mõ” và ăn hạt điều.
Tôi chồng chéo hai ba đoạn văn của ai đó nhạt hoen hoét như nước lã ao bèo để
có một tác phẩm mới đầy…”sáng tạo” mà tôi tạm cho là…”phóng tác”, chứ chẳng
phải đạo văn gì. Cũng giống như nhạc sĩ mang thơ của tha nhân ra chặt từng
khúc hay băm vằm như băm bèo nấu cám cho lợn ăn, và gọi là “phổ thơ”. Nhắc đến
thơ văn, tôi u uẩn đến một nhà phê bình văn học đã luận rằng, những nhà thơ,
nhà văn nào có…sáng tạo!. Thực ra những gì họ đã học, đã đọc, đã
ghi nhận theo thời gian ẩn nấp trong ngõ ngách tâm khảm của họ mà họ không
hay. Rồi có một lúc bất chợt nào đấy, họ vỡ bọng cứt chữ nghĩa vay mượn của
những người đi trước. Họ chỉ lập lại những ý tưởng thẩm thấu đã có sẵn và họ
nghĩ rằng đó là…của riêng họ. Như tôi đã từng..., thưa bạn đọc. *** Hôm sau ghé chùa đưa bản thảo cho sư,
sư im như thóc ngâm. Bèn đánh bạo hỏi mắc chứng gì mà sư chỉ cưỡi ngựa xem
hoa?. Sư thanh thản: “Như miếng thịt trâu thiu, miếng cá
ươn, đâu phải ngốn hết bữa mới thấy…thối hoăng”. Xong, sư hừ một cái: “Thầy tả con khỉ…Tức vay
mượn hình ảnh đế có sáng tạo. Chứ không phải thầy sáng tạo ra…hình ảnh”. Ủa, “sáng tạo” gì nữa đây? Chưa kịp u ơ, sư đã ậm
ừ: “Vượn không ăn…hạt điều!”. Ngừng lại một chút như có gì suy nghĩ lung lắm, sư âm ỉ: “Thầy
hoang tưởng quá lắm, vì Tu Bồ Đề tổ sư có dậy Ngộ Không là…không ngộ hồi nào
đâu? ”. Sư trầm ngâm trong một cõi đi về: “Con
khỉ này về đây sau năm 75, suốt ngày ngồi một mình ở cửa am. Nó bỏ cõi rừng
nơi mà một thời có súng nổ đạn bay, nơi mà bạn bè của nó có thể đã nằm xuống.
Sau những mất mát ấy, nó về gần chùa, gần tăng, gần Phật, nên hẳn là nó tiếp
nhận huyền nhiệm chăng”. Sư đàm hoa
lạc khứ: “Ngay trong văn học Việt Nam cổ điển, vượn đã xuất hiện
rất sớm, từ thuở bình minh của chữ Nôm đời Trần. Trong bài phú Thiền Tông Bản
Hạnh tả cảnh chùa Yên Tử, thiền sư Huyền Quang đã có hai câu: “Chim óc (gọi)
bạn, cắn hoa nâng cúng - Vượn bồng con, cời (dựa) cửa nghe kinh”. Vì vậy theo thiển ý nhà chùa thì vượn, khỉ đều có
căn tu cả đấy. Nghe thủng chuyện chết chóc cùng một
kiếp lai sinh, nhìn cái đầu mồ côi tóc của sư, tôi bèn gãi ngứa:
”Sau khi chết thì khỉ sẽ đi về đâu”. Sư
chỉ ra ngòai cửa sổ, lắc đầu: “Những khúc mắc thầy vừa hỏi nhiều như
cây trong rừng kia. Trong khi những thắc mắc liên quan trực tiếp đến đời sống
chỉ bằng đám cỏ dại quanh đây mà thầy chưa hanh thông. Thế mà thầy cứ đòi biết
thêm những cái quá xa vời kia làm chi”. Vẫn còn ngứa ngáy, chợt nhớ đến lão khọm với căn tu,
tôi gặng hỏi cho chắc ăn: “Vậy khỉ có giác ngộ được chăng”. Sư nhìn tôi ngán ngẩm, như nhìn một…con tiều, và lại
lắc đầu nữa: “Có ích gì khi bàn luận đến một con khỉ
trở nên giác ngộ hay không. Vấn đề là làm thế nào để thầy giác ngộ, có khi
nào thầy kiến ngã đến điều đó chăng?”. Tôi hóa mê hóa ngộ, ngồi trơ thổ địa,
ngơ ngác như quạ vào chuồng lợn. *** Trên đường về, ngồi bên triền núi, đằng
cuối chân trời, đèn đuốc của ngư dân trên các thuyền đánh cá ngoài khơi kết
thành một chuỗi ánh sáng dài thật dài. Ngồi thu lu bên cạnh tôi như người bạn
vong niên là lão khọm, cũng lom lom dòm. Dường như lão cũng muốn nhập vào khỏang
trời khác lung linh đằng xa kia. Bỗng dưng, tôi có ý nghĩ như sư bác, lão khọm
chưa nhập thế đã…ăn chay, tức có căn tu, nên đang muốn hóa thân về một pháp
thân khác. Bằng vào hứng khởi bất chợt ấy, vừa về đến am cốc, mò mẫm cái ba
lô con cóc, lục lọi tư liệu. Tôi đặt bút xuống gửi gió cho mây ngàn bay những
giao động về một con khỉ già giữa mây trời sóng nước, trong hư không. Xong, đọc lại văn bài thấy chung
chiêng chống chếnh cấm có hay cho mấy. Tôi bèn mò xuống nhà trai, nhờ sư khai
mê phá ngộ cho bài viết của mình. Sư bảo tôi bị…ngộ chữ, lúc lên trời
lãng đãng với phù vân phù thế, khi xuống đất, lềnh bềnh với bèo dạt nổi trôi.
Trong khi người ta “canh tân” với chữ mới, tôi lại rị mọ ba mớ ví von dân
gian như những món đồ cổ meo mốc. Với tay chiếc điếu cầy và cái đèn hột vịt lộn,
sư chậm rãi phe phẩy cái quạt nan: “Qua truyện, thầy vặn vẹo
chữ nghĩa trải dài trên giấy thường là ý tưởng, văn tự vay mượn của những người
viết trước. Rồi lóng ngóng như cầm cái cầy nhìn đít con trâu to chành bành đo
dài ngắn và viết…bừa. Thầy
viết không hiện thực, nên tóat ra một vẻ giả tạo. Chuyện ngòai đời mang vào
truyện viêt, tất cả lẫn lộn với nhau: Cái to đi với cái nhỏ, cái sâu sắc lẫn
với cái tầm thường”. Quơ tay lấy cái hộp thiếc, sư nhàn
nhã: “Như thầy biết đấy, thì giờ càng hẹp, càng gấp, càng nhanh. Công việc
càng ngày càng nhiều, lo âu càng ngày càng…âm u làm cho người thưởng ngọan…sốt
ruột. Truyện ngắn không nên gây rối trí, ngán ngẩm cho bạn đọc, vì không ai
kham nổi một mảng văn chương nhẩn nha, chậm chạp...Nhưng vì truyện ngắn không
phải là truyện dài, nên thầy ngại không diễn tả rốt ráo những gửi gấm này
kia. Nên cứ kéo…dài nó ra. Có quá nhiều chi tiết vô bổ, tới mức cái nọ chồng
chất lên cái kia. Như phóng ngựa chạy, chẳng ai thấy mặt mũi…con ngựa đâu đâu
cả”. Sư thong thả mở cái hộp thiếc để đấy
và nhíu mày: “Thấy chớ khi nào coi thường bạn
đọc với cái kiến thức đóng hộp của mình. Vì họ là những thức giả thầm lặng và
họ không tiện nói ra đấy thôi. Người viết là người kể chuyện, hé lộ những
điểm thắt nút, nhưng chi tiết tinh tế, gợi mở cho những gì sắp xảy ra. Người
kể chuyện không nên có giọng điệu giảng giải, phải biết tôn trọng sự thông
tuệ của độc giả. Họ luôn biết lý giải câu chuyện theo cách riêng của mình.
Trong quá trình kể, có rất nhiều tình huống, nhiều chi tiết vụn vặt. Nhưng
nếu không cần thiết đối với câu chuyện, thầy nên loại bỏ chúng”. Với tay nhấc cái bình tích, và tiếp: “Thầy không hay đấy thôi, kiểu cách của
thầy viết là tự sự, là kể chuyện. Có thể nói tự
sự có tính chất phi
- chuyện: Đó là truyện
không cần cốt truyện, phi thời gian. Hãy để ý từng chi tiết nhỏ nhặt, nhưng
không theo thứ tự nào, tức là hiện tượng “truyện - trong - truyện”. Từ đó nảy sinh việc trích dẫn; việc sử
dụng nhiều loại văn bản phi văn chương, từ những tin cắt từ báo chí, viết lại
các văn bản cũ. Các truyện sáng tác theo phong cách có vẻ
gì như vô lý và phi thực. Bất chấp lối viết truyện truyền thống như sự mạch lạc
chi tiết trong cốt truyện và sự hợp lý trong tình tiết . Cả hai tính chất ấy
tạo thành một loại " văn chương của sự phong dật ", hay một loại " văn
chương du / đạo văn ". Duy chỉ có điều bức tranh khảm xà cừ
bằng ngôn ngữ ấy không có khuôn sẵn. Cái khuôn ấy mỗi người viết, khi sáng
tác, phải tự tạo ra. Chính đặc điểm này, phân biệt truyện
hậu hiện đại và truyện
truyền thống: Truyện
truyền thống kéo dài đến tận ngày nay, mọi người cầm bút dường như có một cái
khuôn chung đúc sẵn. Ở đó, người ta chỉ làm mỗi một công việc đơn giản là "rót" câu chuyện của mình vào. Tôi đực ra như ngỗng đực, cứ theo sư
bác là hoa rơi cửa Phật. Bỗng khi không tôi được sư nhồi nhét vào trường phái
hậu hiện đại, tân hình thức lúc nào cũng chẳng hay. Ngẫm cho cùng, dẫu gì sư
bác cũng…”bác vật” lắm chứ đâu có bỡn. Mà truyện của tôi dường như không “hiện
thực”…thực hay sao ấy? Bóc ngắn cắn dài thì nặng phần hư cấu và hoang tưởng.
Tôi bèn đổ vấy ngay rằng mấy lúc gần đây gần với thiền môn, thiền quán cho lắm,
tôi cứ ngỡ mình là…là…thiền giả. Bất bình tắc minh, tôi đánh bấm bụng hỏi sư
về cái bệnh hoang tưởng của riêng tôi. Sư ngần ngừ, xuống giọng: “Xưa có một gã cuồng nho vì nhiều chữ
quá nên mắc bệnh tưởng, cứ tưởng mình là…hạt thóc, nhìn thấy gà nào là chạy
trốn. Bèn tìm đến thiền môn xin một công án, nghĩ rằng mình sẽ ngộ và hết bệnh.
Từ giã thiền sư, gã nói với giọng chăc nịch rằng thiền sư cứ yên tâm, gã đã
khỏi bệnh rồi, gã là người, gã không phải là hạt thóc. Một lát sau, gã cuống cuồng chạy về
thiền viện, mặt cắt không còn hột máu, hổn hển thưa: “Thưa…thưa con gà…”. Gã
lắp bắp: “Con gà nó đang đuổi tôi”. “Sao vậy”, thiền sư hỏi: “Anh đã hết bệnh
rồi mà”. Gã buồn bã trả lời “Vâng” và ấp úng: “Vẫn biết tôi không phải là hạt
thóc. Nhưng khốn nỗi cái con gà nó…không chịu hiểu như vậy”. Véo một viên thuốc lào đúng bằng con nhặng
xanh, nhét vào cái nõ điếu, nhấn cho chặt...Xong, sư bác chiêu niệm: “Xưa kia, Lục tổ nghe
kinh Kim Cương, chỉ nghe câu ứng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm là Ngài liền khai
ngộ, câu ấy có nghĩa là đừng bó vào lòng cái gì vấn vương. Nay thầy đây cũng
chẳng khác gì, tòng tâm kỳ dục bất du củ, thầy cứ quen gây cho mình vướng mắc
nhiều điều huyễn hoặc, nghi hoặc cái thực sau cái giả, cái chân sau cái huyễn.
Thế rồi nằm vào cái tuổi bất chi lão tương chi, thầy cứ mập mờ nhân ảnh với
hòai niệm, u hòai với thật giả tít mù nên không liễu đạt được, không chánh niệm
được ”. Từ tốn rút một que phên ở vách tranh,
cho vào ngọn đèn hột vịt châm lửa. Tay trái sư bác nâng cái điếu cầy lên miệng,
tay phải châm que đóm bập bập mấy cái, rít một hơi dài, hai mó lõm vào sâu hoắm.
Tiếng điếu cầy long lên eng éc như lợn kêu rồi ngửa cổ đùn khói mù mịt, trùm
kín trai phòng, chắc đến ba ngày mới tan. Đột nhiên, sư chỉ tay ra ngòai sân: “Ấy
đấy, thầy có nhìn thấy con gà không”.
Tôi nhìn theo ngón tay của sư…Ủa, nào
tôi có thấy con gà, con qué nào đâu. Mà chỉ bắt gặp lão khọm, cũng vừa lúc
lão cầm cái chầy kình điểm vào tang chuông một tiếng “coong” như…tiếng chuông
tỉnh thức! *** Đợi sư bác hút thuốc lào tanh tách, nhả
khói um lên xong, tôi đứng dậy xin kiếu. Chiều đến im tăm tắp, gió từ hướng
tây thổi về, ùa cơn nóng đến chó ngậm hơi không sủa, trâu bò dưới núi uể ỏai
nằm dài, rãi chẩy trắng mép. Tôi sửa sang lại văn bài đến nửa đêm. Lửa đóm
lóe lên ở chùa, hắt qua khe liếp những vệt sáng đỏ đục, lại nghe tiếng rít
thuốc lào sằng sặc của sư bác…Bỗng có tiếng chuông điểm canh vang vang: Boong…boong…? Om..om…? Kh..ô..ông…Kh..ô..ông… ? Rồi im ắng…Vô ngôn hảo diệu, hết
“boong…” đến “om…” tới “kh..ô..ông…” nghe như con cồ cộ cái gọi con cồ cộ đực.
Tôi đánh rơi cái bút xuống và thiếp đi…Trong nửa tỉnh nửa mê, qua khung cửa
trống toác, tôi thấy lão khọm đang đi về phía am cốc, tay quơ quơ cái chày
kình. Nhòm cái chày kình quơ quơ như cây thiết bảng như dọa dẫm, tôi sợ vãi
đái ra quần, chợt có tiếng lịch kịch ngòai bệ cửa. Tôi ngồi dậy và ớ ra: Lão
khọm tay chống gậy trúc khua cua, đầu đội nón u lờ. Lão chùm hụp bộ cà sa
vàng vá chằng chịt, trông nhếch nhác như một ông sư Tầu. Thấy tôi ngồi dậy,
lão nún xút ướm lời: “Tôi muốn
nhờ vả tiên sinh một chuyện…”. Bá ngọ lão chứ, mắc chứng gì
lão hú họa tôi sợ thọt dái lên đến tận cổ, lại còn gọi tôi…tiên sư với tiên
sinh. Mặc dù là trong giấc mơ, tôi nhìn rõ mồn một cái miệng chun chun của
lão lập bập và nghe vất vưởng ra là: “Mấy
hôm nay được diện kiến với tiên sinh. Tôi thấy tiên sinh mực một túi, nghiên
một túi, bút một túi, ắt hẳn là tiên sinh…viết kinh, thảo sớ hay văn vẻ chi
đây. Nên trộm vía nhờ tiên sinh nhồi nhét vào bài viết dăm hàng hiệu đính dùm
thân thế cụ cố tôi. Rằng ai ai cũng cho rằng truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân là truyện
hoang đường vì cụ cố tôi là Tôn Ngộ Không, bứt nắm lông thổi phù một cái, biến
thành hàng nghìn Tôn Ngộ Không…giả khác. Nhưng ấy là giả tướng, vì theo gia
phả của dòng họ thì cụ Ngộ Không tôi là người thâm nhập kinh tạng, gần như đạt
đạo với ngọai vật bất động kỳ tâm mà sách Kim Cương Bát Nhã gọi là…vô ngã tướng. Gì cũng có cái
nhân quả của nó, trong sách nhà Phật, con khỉ tượng trưng cho trí tuệ. Trí tuệ, tự thân nó là động.
Vì thế cụ cố tôi mang thân tướng tháo động, thấy rõ cái hư, cái rởm của thói
đời, không chịu được nên đại náo, đập phá. Sau khi thấy rõ hậu quả của cái tâm tháo động, cụ Ngộ Không tôi hướng
về bi tâm. Bi tâm cần được trí tuệ vô
ngã dẫn đường, nếu không thì dễ lạc đạo. Nên cụ cố tôi tự thực hành gỉải thóat với cái tâm bằng
cách sợ Đường tăng…lạc đường nên…dẫn đường Đường tăng đi thỉnh kinh để nhập
thế. Bấy giờ cụ Ngộ Không tôi có thêm một pháp hiệu nữa là Hành Giả. Trên đường thỉnh kinh, cụ Hành Giả
tôi hay kiến giải cái cốt lõi huyền diệu của Phật pháp cho thầy Đường tăng
nghe. Chẳng là thầy tăng là người phàm nên lòng còn trần tục, bị chi phối bởi
ngũ hành, lục dục, nên mắc vào cảnh nhớ nhung, phiền não. Như một lần bốn thầy
trò qua một bãi biển, nghe tiếng sóng bủa rì rầm, thầy Đường tăng hồn vía lên
mây hỏi dồn: “Các đồ đệ ôi! Tiếng sóng ở đâu dữ thần vậy”.
Cụ cố tôi cười ruồi: “Ba đứa tôi không nghe tiếng sóng, sao có
mình thầy nghe. Chẳng qua thầy thấy gì cũng thật, nên quên hết Tâm Kinh”.
Và tiếp: “Chẳng há thầy quên rằng vô
nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý, nghĩa là tu nhắm mắt nhắm mũi như thầy: Con mắt chẳng
thấy cái đẹp. Lỗ tai chẳng nghe tiếng tục tĩu. Lỗ mũi chẳng ngửi thấy mùi
thơm. Cái lưỡi chẳng nếm mùi thịt thà. Cái mình chẳng thèm cái sướng…Cái lòng
chẳng ham nhục dục. Trong cái hay lại có ý hòai nghi, nghe tiếng sóng cũng sợ.
E thầy đi Tây phương chẳng đặng đâu”. Vì cái miệng lưỡi của cụ cố tôi như vậy,
nên thầy Đường tăng mới gọi là Tôn Hành
Giả…Mà…giả có nghĩa là không thật. Tôn đây lấy từ tên vua Cao Tôn đời Đường mà có. Theo như Tống Tăng truyện, hoặc Ngộ
Không tự truyện thì cụ cố tôi là một tăng lữ có thật vào đời Tống, thời vua
Huyền Tông và tục danh cụ là Xí Phụng
Triều, dòng dõi hòang tộc Học Thác
Bạch nhà Bắc Ngụy (386-534). Cụ qua nước Đô Quá La mang kinh điển về
Tràng An năm Trinh Nguyên nên được sắc phong là Ngộ Không. Chữ “Không” của tên cụ cô tôi, lấy từ
trong Bát Nhã Tâm Kinh qua câu “sắc
bất thị không, không tức thị sắc”, như tiên sinh
đã hanh thông”. *** Hóa ra lão khọm chui vào giấc Nam Kha
của tôi cũng vì chuyện gia phả, gia phong này kia, kia nọ. Sau khi xăn xắn gửi
gấm mọi việc hòm hõm với tôi rồi. Lão khọm đăm đăm nhìn tôi. Tôi hiểu ra và gật
đầu. Lão chậm chạp và nặng nề đi về phía bìa rừng… Quên cả cây gậy trúc khua cua và cái
chày kình. Thế mới lạ! Trời sáng tỏ, tôi qua chùa xin tách
trà vối để qua đêm nên đã thiu thì phải. Dưới mái hiên, sư bác tần ngần nhìn
theo bóng lão khọm khuất trong lùm cây và lắc đầu: “Thực tình tôi chẳng biết con khỉ này có nghe được kinh kệ hay không?
Nhưng hôm qua nghe tôi tụng “Muôn sự tại tâm, vạn pháp tại thức” nên nó tỉnh
thức chăng, để có cái tâm ý muốn làm người. Sống trong cảnh giới con nguời,
nó chỉ thấy phiền não cùng cái vòng trầm luân với nhân quả. “Hành tương tựu mộc
tác nhân nan” vì quả tình làm người khó thật. Vì nếu cứ tiếp tục sống trong
cái vòng duyên nghiệp, một ngày nào đó nó sẽ lẩn quẩn trong tứ diệu đế của
sinh, lão, tử, bệnh. “Hạ học nhi thượng đạt”, mặc dù nó muốn giải nghiệp của
nó qua kinh nhà Phật với diệt khổ bằng con đường giác ngộ. Như thiền sư Huệ Hải dậy
rằng: “Khi đói thì ăn. Khi mệt thì ngủ. Tức khi ăn chỉ nghĩ đến ăn. Khi ngủ
chỉ nghĩ đến ngủ. Vậy mà con người mà con khỉ đang bắt chước thì lại khác: Lại
diệt khổ bằng cách khi ăn lại…sợ chết, nên ăn rau cỏ như nó. Khi ngủ chẳng chịu
ngủ, đầu tính tóan chuyện…điên đầu khác, nên nó chẳng thể giác ngộ được”. Sư bác húng hắng
ho khan: “Như hồi hôm thầy
hỏi khi con khỉ chết nó sẽ đi về đâu thì trong bài kệ vào đời Trần của thiền
sư Tuệ Trung Thượng Sĩ đã dậy “Kiến giải trình kiến giải – Minh minh thường tự
tại”, mong thấy tự khai thông khai ngộ lấy. Tôi hiểu thầy đang đi tìm cái
chân như trong thế tục, nay thấy ghé cửa thiền và nghe Phật đã dậy “Kiếp trần
tục chỉ là tạm bợ, là giả”, nên mong thầy hiểu cho”. Chuyện khỉ ho cò gáy gì đâu, cái đèn
hột vịt của sư nhẩy bổ vào đầu tôi và lóe lên một cái: Vì rằng tôi tầm sư học…cái
thật. Sư bác này mang trứng để đầu gậy, lại đi dậy tôi…cái giả, bến ngộ đâu
chẳng thấy chỉ thấy bờ mê. Tôi líu ríu với sư bác rằng nay mai tôi sẽ rời đây
vì tôi không thể nhập cốc, nhập thiền được. Tôi như bị dị ứng với hương đèn
nhang khói, ngửi qua là sổ mũi, hắt hơi. Tôi cảm thấy bị rối trí nhức đầu với…”có”
tức là…”không”, nên cứ rối như canh hẹ như con khỉ già. Thêm nữa, áy náy sư chẳng mấy vui vì sư tầm đệ tử nan, mà đủng đỏang nhè thằng tôi chẳng được hạp nhãn
cho mấy. Nên tôi vén mồm sáo cuội ca tụng cảnh chùa u tịch, lại được ăn uống
chay tịnh ngon đến…bối rối nên rất dễ…giải thóat. Tôi thì đang ham sống, ham
vui và cũng đang tu tại gia, chiều nào chả…tu một, hai chai là thấy…đạt, thấy…ngộ
rồi. Tôi đành giã từ sư bác, bước xuống bậc thềm, một làn gió lạnh ập tới.
Tôi rùng mình…như bật văng ra ngòai giấc mơ trần thế là kiếm cái vé đi đường
tắt lên niết bàn. Mà cứ theo thiển nghĩ tôi thì nơi chốn đó chỉ có mây bay
gió thổi với…có là…không. Cũng…có đấy, mà cũng…không có đấy. Thế nên tôi vội
vã đi tít mít, đi văng ra khỏi cửa…thiền môn. *** Tạm biệt núi non biển cả trở về lại
vòng nước xoáy nhân sinh, để lại tung hê vào dòng sinh mệnh quen thuộc. Trên
đường rong ruổi, cái ba lô trên vai như vướng víu. Hay lòng dạ tôi đang vấn
vương vì đệ tử tầm sư dị, được đàm
trường viễn kiến với sư bác. Chẳng hiểu chuyến đi này, con lộ viết lách của
tôi có được thong thả hay chăng. Mà thấy sao mà con đường cứ càng lúc càng
dài ra, trời đất lại lấm tấm mưa bụi bay bay. Đi được một quãng ngắn, cái ba
lô con cóc đè lưng tôi muốn oằn xuống. Và tôi…qua cầu, cái túi cứ nặng chĩu, ắt
hẳn là tại mưa. Tôi mở ra xem thì giời ạ! Ông giời có mắt xuống đây mà xem, tất
cả mớ sách vở, tư liệu đã biến thành: Một phiến đá! Với phản ứng thất thần, tôi buột miệng
câu niệm của sư bác “Nam Mô Thường Tinh
Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát”. Ấy đấy, đến cái câu thần chú này tôi có hiểu quái
gì đâu. Thế nên tôi cũng chẳng rỗi hơi đi tìm hiểu bản thể của phiến đá thô kệch
ấy, nó từ đâu mà đến rồi sẽ đi về đâu. Tôi đồ rằng chẳng có gì tự sinh, không
có gì tự diệt. Quẳng gánh lo đi nhẹ lấy mình, theo quán tính, tôi quẳng bu
phiến đá xuống suối cho yên chuyện. Trở về khách sạn, tôi nằm vật ra tính
đánh một giấc. Bỗng chập chờn nghe tiếng chuông chùa vọng lên từ dưới bãi, với
tiếng ngắn dài “Boong...boong...”. Có lúc nghe như “Om...om...”. Khi thì nghe
như “Kh..ô..ông...kh..ô..ông...”. Như không có thật. Như đỉa phải vôi, tôi hốt
hoảng bật dậy vì chợt nhớ ra lão khọm để quên cái chày thì đánh chuông kêu
boong...boong ở cái khổ nào. Chưa hết, lão khọm về rừng với dáng…chậm chạp và nặng nề. Hình dung lại
cái hình tượng lão khọm như…ôm một đống gì ấy? Thế là tôi bổ nháo ra đường chạy vội về
hướng có con suối, lên đến cái cầu gỗ chứ chả phải cái cầu khỉ như trong phần vào truyện mà tôi đã hư cấu và hoang
tưởng. Dưới chân cầu, đập chát vào mắt tôi là lão khọm đang tay búa, tay đục…đục
đẽo phiến đá mà tôi vừa mới quẳng đi. Thấy tôi, lão nhẩy cà tưng, cong cái
đuôi cụt ù té chạy mất đất. Trời xanh đến nao lòng và nắng vàng
cũng ngớ ngẩn. Lần mò xuống bến bãi, tôi ngẩn ngơ thấy trên phiến đá có khắc
họa một bài thơ, nét chữ thảo: Ngày xưa đại thánh tung hòanh Một đường thiết bảng vang danh cõi trời Đến khi đạt pháp cao vời Ngộ Không để thấy cuộc đời vốn…không *** Chuyện đuợc kể trong bài tự sự này,
nói cho ngay, chẳng có…hư cấu thật, hiện thực giả gì ở đây sất cả. Vì rằng
sau khi buông bút, tôi chẳng bận tâm vương vấn mấy cho lắm. Như ông sư già bê
cô gái trẻ qua vũng nước, xong là quên ngay. Chỉ biết rằng sau đấy, tôi đã
mang được về cái chày kình, như một món đỗ cổ, một dấu tích của một chuyến
đi... Cũng từ lâu lắm rồi, tôi có ý định viết “Một truyện ngắn có thật” này đây như đã giàn dựng ở trên. Nhưng
mãi cho đến hôm nay vẫn chưa xong! Lý do dễ hiểu là như sư bác đã bày vẽ ở
trên: “Người viết là người kể chuyện,
hé lộ những điểm thắt nút, nhưng chi tiết gợi mở cho những gì sắp xảy ra. Người
viết không nên có giọng điệu giảng giải, phải biết tôn trọng sự thông tuệ của
độc giả. Họ luôn biết dẫn giải câu chuyện theo cách riêng của mình”. Vì bạn
đọc ai ai cũng lý giải ra rằng lão khọm đã…ôm cái máy vi tính, chồng bản thảo
vào rừng mất tiêu rồi còn đâu! Thế nên đâu còn bản thảo với lai cảo để
trình làng thưởng lãm, thưa bạn đọc.
Trúc gia trang, tiết thu, Giáp Thân niên
Ngộ
Không Phí Ngọc Hùng
Nguồn từ những tác giả: Nguyễn Hữu Liêm, Tưởng Năng Tiến,
Võ Phiến, Trần Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Hưng Quốc, Vũ Phong Lưu, Đồ Khỉ Gió,
Taisen Deshimaru, Anton Pavlovitch Tchkhov, Vương Trí Nhàn, Tô Hoài, Doãn Quốc
Sĩ, Nguyễn Tường Bách, Nguyễn Quốc Văn, Kinh Dương Vương, Nguyễn
Quốc Văn... |
|