Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]          [ Trang chủ ]             [  Tác giả ]

TĨNH DẠ TƯ CỦA LÝ BẠCH 
 

Thu Tứ

Nguyên văn

Dịch nghĩa

Dịch ra thơ Đường luật

- Tương Như
- Trần Vấn Lệ
Dịch ra thơ lục bát
- Trần Trọng Kim
- Thu Tứ
*
Chữ "sàng tiền" trong bài thơ này không hiểu tại sao nhiều người dịch là đầu giường. Đầu giường chữ Hán là "sàng đầu".(1) Thay "tiền" bằng "đầu" không phạm luật thơ nào cả, nên thiết tưởng nếu Lý Bạch muốn nói "đầu giường trăng sáng soi" thì hẳn ông đã viết "sàng đầu minh nguyệt quang"...

"Sàng tiền" nghĩa là trước giường.(2) Ánh trăng rọi qua cửa thành một vùng trăng trắng trước giường, nhà thơ có lẽ vừa tỉnh dậy, còn mơ màng, nên ngỡ là sương...

Ngỡ thoáng thôi, rồi biết là ánh trăng, rồi ngồi dậy ngẩng đầu nhìn trăng, rồi cúi đầu nhìn vào... lòng mình!

Nguyên văn

Tĩnh dạ tư

Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.

Dịch nghĩa

Trăn trở trong đêm vắng

Trước giường trăng sáng soi
Ngỡ sương phủ mặt đất
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê xưa.

Dịch ra thơ Đường luật

Tương Như:

Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.

Trần Vấn Lệ:

Tưởng sương trên đất, hóa ra trăng!
Ngước mắt khôn ngăn giọt lệ thầm
Cúi mặt, hỡi ơi lòng dạ nát
Quê nhà biền biệt biết bao năm!

Dịch ra thơ lục bát

Trần Trọng Kim:

Đầu giường chợt thấy bóng trăng,
Mập mờ trên đất, ngỡ rằng sương sa.
Ngửng đầu trông vẻ gương nga,
Cúi đầu luống những nhớ nhà băn khoăn.

Thu Tứ:

Bản 1:

Trước giường bàng bạc màu trăng,
Mơ màng lại ngỡ sương giăng la đà.
Ngửng đầu: trăng sáng trời xa,
Cúi đầu, chạnh nhớ cảnh nhà, quê xưa.

Bản 2:

Trước giường bay một vùng trăng,
Dở mê những tưởng sương giăng giữa nhà!
Ngửng trông vằng vặc trời xa,
Cúi nghe niềm nhớ chực òa trong tim...

___________

(1) Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh: "sàng đầu kim tận, tráng sĩ vô nhan" ("đầu giường hết tiền, tráng sĩ cũng khó mở mặt").

(2) HVTĐ: "sàng tiền bồ phục" ("trước giường bò xóm róm").