Từ
năm sinh 1918 đến khoảng năm 1940, Nguyễn Bính ở miền Bắc.
Từ khoảng 1940 đến năm 1954, ông ở miền Nam.(1) Sau 1954,
ông lại ra ở Bắc cho đến khi mất năm 1966. Ba giai đoạn
của một cuộc đời ấy có thể gọi là Giữa Quê, Đi Xa
và Trở Về. Giai đoạn nào Nguyễn Bính cũng làm được nhiều
thơ hay.
Nguyễn Bính sinh trưởng ở
nông thôn, nên "thơ Giữa Quê" dĩ nhiên là về quê. Ở đâu
thì cũng có "tình" và "cảnh". Như để phối hợp với Đoàn
Văn Cừ "chuyên trị" cảnh quê, Nguyễn Bính khi sáng tác tập
trung vào tình quê, với quan tâm đặc biệt đến tình yêu
giữa những gái quê và những trai quê. Quan tâm ấy không hề
"vô tư", bởi chính ông đang là một người trong cuộc rất
tích cực! Cảm xúc sâu sắc kết hợp với thi tài đã khiến
ra đời bao nhiêu thơ như những lời hát lên thật thiết tha
cái ước mơ lãng mạn nơi thôn dã... Tình yêu trai gái quê
vốn đã được ghi lại bằng không biết bao nhiêu ca dao rồi,
nhưng như thể đến khoảng ấy nó linh cảm sắp có một "cuộc
bể dâu chưa từng", nên nó tìm trao cho một người thích hợp
nhiệm vụ gấp rút ghi thêm nhiều lần nữa, để "mai sau dù
có bao giờ" thì "chút của tin" được càng to càng tốt. Thơ
Giữa Quê có thể xem là những bài ca dao dài có ký tên tác
giả. Đáng chú ý, Nguyễn Bính không nệ cổ, chỉ biết có
lục bát với song thất lục bát thôi đâu, mà đã sáng tác
theo cả lối thơ Mới bảy chữ nhịp 4/3 xuất phát từ thơ
Đường luật. Cái nhịp Tàu này chưa hề phổ biến trong văn
học dân gian, nhưng "ca dao Mới" của ông bài nào bài nấy
vẫn cứ nghe tự nhiên, dân dã y như lời người quê!
"Chàng trai xuân mơ chuyện
vợ chồng", bình thường quá, nhưng đây mơ nhất định không
chịu hóa thực. Một cái đám cưới cứ mãi là một ảo ảnh!
Tình yêu đã gặp cản trở ghê gớm gì? Đại khái, là tình
trạng thiếu trầm trọng "gạch Bát Tràng" cho "nàng rửa chân".
Thử tưởng tượng một con bướm xôn xao bay giữa vườn quê
đầy những hoa thơm. Bướm đến bên hoa, chờn vờn muốn
đỗ, có những lần đỗ được giây lát, nhưng hoa hay mẹ
hoa cân "gạch" xong, không chịu lấy chỉ đỏ buộc chân bướm,
mà mời vỗ cánh đi thăm hoa khác! Cứ thế, thất bại chồng
chất, khiến giữa bao nhiêu bản tình ca say đắm của một
tâm hồn cực kỳ lãng mạn dần có chen vào ngày càng nhiều
những lời trách móc, than thở, chán đời, kêu giời, "kêu
chị"...
"Dở dang cho đến thế thì...".
Buồn cho nhà thơ, nhưng lại vui cho thơ nhờ đó mà có thêm
được nhiều tác phẩm giá trị về một quan hệ tình cảm
căn bản vào cái thời Việt Nam hãy còn chưa "thôi một nước
quê". Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh bảo thơ Nguyễn
Bính nhắc ta "một điều quý vô ngần: hồn xưa của đất
nước". Hồn quê nghìn năm hiện hình, tất nhiên là mộc mạc
và tinh tế. Sau đây chúng tôi xin được chia sẻ chút cảm
nghĩ khi thưởng thức một ít vần tiêu biểu.
Hội xuân
"Chiều xuân mưa bụi nghiêng
nghiêng / Mưa không ướt áo người xem hội làng / Khen ai nhuộm
áo tam giang / Ðánh dây xà tích cho nàng chơi xuân / (...) / Ðường
thôn hoa bưởi trắng ngần / Hoa xoan tím nhạt vân vân rụng
đều / Làng quê dìu dịu sương chiều / Tưởng đâu khói pháo
hạ nêu hôm nào... / Cỏ non sườn núi phơi màu / Lúa đồng
con gái rì rào lá tơ / (...)". "Hội làng nô nức gái trai"
nhất định có Bính "mê mải sớm trưa đi về". Sớm, trưa,
chiều, tối, nhất là đêm, "mong đêm quên sáng cho dài ngày
xuân"! Xuân tỉnh Nam, trống chèo thâu canh, vui quá thể. Bính
hẳn xem chèo cũng có, mà tíu tít "khen ai tròn áo tứ thân"
với "mịn quần lĩnh tía" lại càng chắc có. "Gió loạn đuôi
cờ", ơ hay, trong ngực ai không gió mà sao tim cũng cứ đập
loạn cả lên thế này!
Xuân về
"Ðã thấy xuân về với
gió đông / (...) / Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm / (...) / Trên
đường cát mịn, một đôi cô / (...)". Một bức tranh xuân
quê rất... Bính. Thoạt vừa mở cuộn, thấy ngay một cô gái
"mắt trong", "má màu chưa chồng". Mở đến gần cuối cuộn,
lại thấy một đôi cô khác "yếm đỏ, khăn thâm" hẳn cũng
chưa chồng... Cái lúc trong năm hay quá nhỉ. Cây "lá nõn, ngành
non", lúa vào "thì con gái", đến nắng cũng "mới". Đã thế,
"hoa bưởi hoa cam" lại thả "hương bay ngào ngạt" khiến "bướm
vẽ vòng" trông sốt cả ruột. Cảnh xuân gợi quá, mà gái
quê mơn mởn lại trang phục trang điểm thật quyến rũ kéo
nhau "trẩy" trên đường làng, trai quê chịu làm sao nổi, riêng
lòng một người bỗng cứ muốn bay! Tưởng ai, chứ người
ấy thì các hoa biết nói có lạ gì đâu: Chúng em đi guốc
trong bụng anh Bính, nào, mời anh cứ... vẽ vòng đi!
Tương tư
"Thôn Ðoài ngồi nhớ thôn
Ðông / Một người chín nhớ mười mong một người / Gió
mưa là bệnh của giời / Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
/ (...) / Bảo rằng cách trở đò giang / Không sang là chẳng
đường sang đã đành / Nhưng đây cách một ngọn đình / Có
xa xôi mấy mà tình xa xôi / Tương tư thức mấy đêm rồi
/ Biết cho ai, hỏi ai người biết cho? / Bao giờ bến mới
gặp đò / Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau? / Nhà em có
một giàn giầu / Nhà tôi có một hàng cau liên phòng / Thôn
Ðoài thì nhớ thôn Ðông / Cau thôn Ðoài nhớ giầu không thôn
nào?". "Tôi" mắc bệnh cũng đã lâu. Giá có đủ
điều kiện vật chất thì đã chữa dứt nọc được rồi.
Nhưng, cho nên bệnh cứ trở đi trở lại, thành một cái bệnh
rất "thân". Điển hình, "ốm tương tư" có nặng lắm thì
cũng chỉ làm rụng tóc (4), đây lại làm rơi ra bao nhiêu là
câu thơ thật tình tứ! Bài này đề tặng "Ch.". Dường như
không ai biết Ch. là ai. Dẫu có biết, chắc chắn là mới
"biết một mà chưa biết mười". Vì Nguyễn Bính ai cũng biết
rất đa tình... nhân.
Người hàng xóm
"Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
/ Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn / Hai người sống giữa
cô đơn / Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi / (...) / Cái
gì như thể nhớ mong? / Nhớ nàng? - Không, quyết là không
nhớ nàng! / (...) / Hồn trinh còn ở trần gian / Nhập vào bướm
trắng mà sang bên này". Trong văn chương Việt Nam, dễ đây
là người hàng xóm nổi tiếng nhất! Cũng lạ. Hàng xóm, chứ
có phải "hàng phố" đâu, mà bỡ ngỡ nhau thế. Chắc "tôi"
mới dọn về hoặc "nàng" mới dọn về... Tôi buồn vì "ân
ái nhỡ nhàng", rồi tôi tưởng tượng người ta cũng như
tôi... Tôi tuy "riêng nhớ bạn vàng ngày xưa", nhưng thấy con
"bướm trắng thường sang bên này" thì cũng không nhịn được
mà phải gọi vào "hỏi nhỏ (...) chút thôi", hỏi xong bướm
"về bên ấy rồi" thì "bỗng dưng tôi thấy bồi hồi (...)
hay tôi (lại) yêu" không biết là lần thứ mấy đây?! Tự
hỏi rồi chối, lại tự hỏi, lại chối, nhưng rút cuộc
đành nhận "quả" là như thế. Yêu nhiều, tốt thôi người
ơi.
Qua nhà
"Cái ngày cô chưa có chồng
/ Ðường gần tôi cứ đi vòng cho xa / Lối này lắm bưởi
nhiều hoa... / (Ði vòng để được qua nhà đấy thôi) / Một
hôm thấy cô cười cười / Tôi yêu yêu quá nhưng hơi mất
lòng / Biết đâu rồi chả nói chòng: / "Làng mình khối đứa
phải lòng mình đây!" / (...) / Từ ngày cô đi lấy chồng /
Gớm sao có một quãng đồng mà xa / Bờ rào cây bưởi không
hoa / Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo / Lợn không nuôi, đặc
ao bèo / Trầu không dây chẳng buồn leo vào giàn / Giếng thơi
mưa ngập nước tràn / Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều".
Hoa
thơm bướm lượn. Em thơm Bính lượn. Lượn vòng, vòng, vòng,
rồi hơi mất lòng khi thấy hoa, à em, cười cười chế giễu...
Ai chòng mặc ai, "một năm đến lắm là ngày", làm thân con
bướm chẳng ngày nào không bay! Bướm Bính bay mỏi gần rụng
cánh mà chẳng nên công cán gì. Có chăng, biết đâu, cái bông
hoa người ta đã đánh vào chậu đem đi xa, có hôm hoa ấy
ra đứng ngõ sau trông về quê mẹ, chợt thấy hơi nhơ nhớ
một cánh bướm thấp thoáng bên rào.
Mưa xuân
"(...) / Bữa ấy mưa xuân
phơi phới bay / Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy / Hội chèo
làng Ðặng đi qua ngõ / Mẹ bảo: "Thôn Ðoài hát tối nay"
/ Lòng thấy giăng tơ một mối tình / Em ngừng thoi lại giữa
tay xinh / Hình như hai má em bừng đỏ / Có lẽ là em nghĩ đến
anh / (...) / Chờ mãi anh sang anh chẳng sang / Thế mà hôm nọ
hát bên làng / Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn / Ðể cả mùa
xuân cũng nhỡ nhàng! / (...) / Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày
/ Bao giờ em mới gặp anh đây? / Bao giờ hội Ðặng đi qua
ngõ / Ðể mẹ em rằng hát tối nay?". "Em nghĩ đến...",
rồi em nghĩ rằng "thế nào anh ấy chả sang xem!", rồi "em
xin phép mẹ vội vàng đi", rồi "em mải tìm anh chả thiết
xem", thế mà anh đâu, anh đâu?! Vẫn "một thôi đê" ấy, đi
ngắn sao về thấy dài thế, mưa bây giờ nặng hạt thế,
canh khuya "lạnh lùng" thế... Chao ơi sốt ruột, bao giờ, bao
giờ? Lòng em mà anh đọc vanh vách cứ y như lòng anh! Chẳng
những đoán được hết những ý nghĩ thầm kín liên hệ đến
mình, anh lại còn hình dung ra cả những cử chỉ vu vơ của
em như "ngửa bàn tay trước mái hiên", để "mưa chấm bàn
tay từng chấm lạnh"... Tưởng tượng tỉ mỉ xong đâu đấy,
ngon trớn, anh đặt luôn lời anh vào miệng em. Nghe cứ y như
em thật, nhưng không có thể! Vì đây là thơ bảy chữ nhịp
Tàu, mà em thì bao giờ cũng sáu tám hay bảy bảy sáu tám thôi.
Lòng mẹ
"Gái lớn ai không phải lấy
chồng / Can gì mà khóc, nín đi không! / Nín đi! mặc áo ra
chào họ / Rõ quý con tôi! Các chị trông! / Ương ương dở
dở quá đi thôi! / Cô có còn thương đến chúng tôi / Thì
đứng lên nào! lau nước mắt / Mình cô làm bận mấy mươi
người / Nào áo đồng lầm, quần lĩnh tía / Này gương này
lược này hoa tai / Muốn gì tôi sắm cho cô đủ / Nào đã
thua ai đã kém ai? / Ruộng tôi cày cấy, dâu tôi hái / Nuôi
dạy em cô tôi đảm đương / Nhà cửa tôi coi, nợ tôi trả
/ Tôi còn mạnh chán! khiến cô thương! / Ðưa con ra đến cửa
buồng thôi / Mẹ phải xa con, khổ mấy mươi! / Con ạ! đêm
nay mình mẹ khóc / Ðêm đêm mình mẹ lại đưa thoi". Nữa,
nhà thơ lại đoán lòng rồi đặt lời giúp người khác. Cả
đoán lẫn đặt đều giỏi. "Tôi" nào đó nếu có nghe rất
có thể tưởng mình đã thốt ra như thế thật cái hôm con
gái đi lấy chồng. Ơ, nhưng lời thốt từ một cái miệng
nhân dân... Đại Việt, sao nó lại nhịp như thơ Đường thế
này nhỉ, mà nghe lại vẫn cứ tự nhiên y như ca dao!
Lẳng lơ
"Láng giềng đã đỏ đèn
đâu / Chờ em ăn dập miếng giầu, em sang / Ðôi ta cùng ở
một làng / Cùng đi một ngõ, vội vàng chi anh? / Em nghe họ
nói mong manh / Hình như họ biết chúng mình... với nhau / Ai
làm cả gió, đắt cau / Mấy hôm sương muối cho giầu đổ
non". Ðây là lục
bát, nên có thể là lời "em" mà Nguyễn Bính nghe xong chép
xuống, bảo là thơ mình! Đùa thôi, chứ tuy lục bát cực
thân thiết với dân tộc Việt Nam, đâu phải bất cứ ai cũng
nói được bằng thơ cho ra thơ. Chính "anh" đã vận dụng năng
khiếu có thể thao thao lục bát bất cứ chuyện gì mà đặt
ra lời em nói thầm với em đó.
Chân quê
"Hôm qua em đi tỉnh về /
Ðợi em ở mãi con đê đầu làng / (...) / Hoa chanh nở giữa
vườn chanh / Thày u mình với chúng mình chân quê / Hôm qua
em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều!".
Bài
thơ rất nổi tiếng này viết năm 1936. Năm ấy quê đã mấy
nghìn tuổi mà vẫn hãy còn khỏe khoắn lắm. Thế rồi thêm
có 80 năm nữa, trông lại quê "thôi đã thôi rồi".(5) Ờ,
mà thực ra không phải đã cần đến cả 80 năm đâu, đưa
quê xuống suối vàng, chủ yếu là "bàn tay" của cái khoảng
độ phần tư thế kỷ gần đây nhất. Chỉ từ khoảng năm
1990, 1991, quê mới bắt đầu chết ào ào, chết như rạ, chết
"đại trà". Có nơi quê mất hẳn "xác", bị chính thức nhập
vào tỉnh (tức thành phố) mở rộng; có nơi xác còn nhưng
hồn mất, quê hóa thành những cụm phố giữa đồng! Dân
quê bây giờ đêm đêm xem phim Tây phim Tàu phim Nhật phim Hàn.
Gái quê bây giờ mặc những món tối tân hơn "khăn nhung, quần
lĩnh, áo cài khuy bấm" không biết bao nhiêu mà không "làm khổ"
trai quê nào cả. Dâu hóa hẳn bể rồi. Ðồng đó, nội kia,
nhưng hương thơm gió mát "bay đi hết rồi"! "Những người
muôn năm cũ / Hồn ở đâu bây giờ?".(6)
Đêm cuối cùng
"Hội làng mở giữa mùa
thu / Trời cao gió cả trăng như ban ngày / Hội làng còn một
đêm nay / Gặp em còn một lần này nữa thôi / Phường chèo
đóng Nhị Ðộ Mai / Sao em lại đứng với người đi xem? /
Mấy lần tôi muốn gọi em / Lớp Mai Sinh tiễn Hạnh Nguyên
sang Hồ / Tình tôi mở giữa mùa thu / Tình em lẳng lặng kín
như buồng tằm". Đi xem chèo chả "đứng với người đi
xem" thì đứng chỗ nào?! Tình "bướm" mở thì cứ mở nhé.
Vì nở chỉ một lần, "hoa" đo đắn lắm, chưa mở tình đâu.
Cô hái mơ
"Thơ thẩn đường chiều
một khách thơ / Say nhìn xa rặng núi xanh lơ / Khí trời lặng
lẽ và trong trẻo / Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ / Hỡi
cô con gái hái mơ già! / Cô chửa về ư? Ðường thì xa / Mà
ánh chiều hôm dần một tắt / Hay cô ở lại về cùng ta?
/ Nhà ta ở dưới gốc cây dương / Cách động Hương Sơn nửa
dặm đường / Có suối nước trong tuôn róc rách / Có hoa bên
suối ngát đưa hương / Cô hái mơ ơi! / Chẳng trả lời nhau
lấy một lời / Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng / Rừng
mơ hiu hắt lá mơ rơi...". Mặc "ta" khoe suối khoe hoa, rủ
rê, cô con gái cứ lẳng lặng hái mơ già đầy rổ, rồi lẳng
lặng cắp rổ ra về, "chẳng trả lời ta lấy một lời"!
Không sao. Bởi đây "thấp thoáng đường thơ anh hái
thơ" mới là cái chính. "Hương Sơn phong cảnh"(7) gợi cảm
quá, lại có cả đại biểu của một loài hoa vốn tự nó
là nguồn hứng bất tận cho tâm hồn thi sĩ, nên bất chấp
đại biểu "rồi khuất bóng", cảm hứng cứ hóa thành dìu
dặt tiếng thơ rơi... Tán gái thất bại, làm thơ thành công,
cũng đỡ!
Tháng 11-2016
____________
(1) Trong mấy năm đầu, Nguyễn
Bính thỉnh thoảng có trở ra Bắc.
(2) Ca dao: "Ba cô đội gạo
lên chùa...".
(3) Trong bài "Khóc Dương
Khuê" của Nguyễn Khuyến.
(4) Trong bài "Ông đồ" của
Vũ Ðình Liên.
(5) "Hương Sơn phong cảnh"
là tên một bài thơ của Chu Mạnh Trinh. |