Chim Việt Cành Nam Trở Về  ]


 

 
 
Số 35 / 08 - 05 - 2009
Những bài mới đưa lên sau ngày 08/05/2009
. Laiquangnam giới thiệu thi nhân tráng sĩ Đặng Dung
Trong hàng ngàn bài Thất ngôn bát cú luật thi của Việt Nam cũng như của Đường thi Trung Quốc mà tôi đã đọc, những bài liên quan đến tâm sự người tráng sĩ trước vận nước không hề có một bài nào có thể so sánh được với bài Cảm hoài của tráng sĩ thi nhân Đặng Dung của chúng ta, kể cả thơ của Tô Đông Pha, thi nhân rất nổi tiếng đời Tống. Có lẽ cả trong dòng Thất ngôn bát cú này, một bài khác có thể để bên viên ngọc quý này là bài Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu, tuy nhiên tâm sự của Thôi Hiệu lại là dòng tâm sự thương nhớ quê hương. Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu thật khó mà so sánh được với Cảm hoài của Đặng Dung cả về nội lực văn chương, cả về nhãn quan lẫn văn phong. Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu đã được đề cập nhiều tại Việt Nam, nay tôi không bàn về Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu nữa vì xem như khách thơ đã biết; nay tôi tập trung bàn về bài Cảm hoài của Đặng Dung mà thôi.

Thơ văn của Đặng Dung chỉ còn lưu lại chỉ mỗi một bài Cảm hoài. Đó là một bài thơ mà tám câu thẩy đều xuất sắc, mỗi câu là một trang sử, (...) . Danh sĩ Lý Tử Tấn người đồng khoa tiến sĩ với Nguyễn Trãi, là phó soái Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú thời vua Lê Thánh Tông, vào giữa thế kỷ XV, khi nhận Xét về bài thơ này, Lý danh sĩ phê "phi hào kiệt chí sĩ bất năng" (nếu không phải là người hào kiệt ,tráng sĩ thì không thể trước tác nổi).
(...)
Xin các bạn hãy cùng tôi, chúng ta cùng đọc kỹ lại thơ ông để xem lời bình của danh sĩ Lý Tử Tấn đúng đến mức độ nào, và tiện thể cũng để xác định cho chắc một lần cuối rằng, trong thể Thất ngôn bát cú nói về khí phách tráng sĩ không bài nào qua mặt nổi bài Cảm hoài của Đặng Dung tài danh của Việt Nam chúng ta. Để có thể thưởng ngoạn cho tận hết "cái hay " của bài trên, xin khách thơ cùng laiquangnam đọc lại lịch sử cũng như các huyền thoại thoại dân gian.

. Quỳnh Chi :
Trời về chiều, cảnh vật chung quanh mỗi lúc một chìm vào bóng chiều đang mờ tối dần. Viên cảnh sát chợt cảm thấy nơi người đàn ông đang đi trên con đường vắng vẻ thưa thớt bóng người kia có một vẻ gì bất thường, bèn lên tiếng gọi:
-Này ..này..
Tức thì, người đàn ông ấy quay lại, nhưng không hiểu vì sao anh ta lại xanh mặt, ra chiều hết sức hoảng hốt, rồi bỏ chạy.
-Tên này khả nghi thật ! Đứng lại nào!
Viên cảnh sát đuổi theo mãi mới bắt kịp người đàn ông. Anh ta vùng vẫy kháng cự .
-Cái gì mới được chứ ! Tôi có làm gì đâu nào mà sao lại bị đuổi theo ?
-Là vì mi bỗng dưng bỏ chạy. Nghe cảnh sát gọi mà bỏ chạy ắt là phải có lý do gì !
Vị thiếu chủ nghe Muso nói một cách ung dung tự tại như thế thì sắc mặt lộ vẻ mừng rỡ, hết lời cảm ơn.  Một lát sau, tất cả mọi người trong nhà ấy cùng với bọn người làng ở nhà trên, sau khi nghe gia chủ kể lại những lời ân cần tử tế của Muso thì ai nấy đều tới để ngỏ lời cảm ơn Muso. Sau đó, gia chủ lại nói:

-Thưa sư ông, để ngài ở lại một mình thật tình là chúng tôi cũng rất ái ngại, nhưng đã đến lúc chúng tôi phải ra đi. Theo lệ của làng này, không ai được ở lại nhà đến quá nửa đêm. Trong lúc không có chúng tôi ở cạnh ngài, xin ngài hãy hết sức thận trọng giữ mình. Trong lúc chúng tôi vắng nhà, nếu có điều gì lạ xảy ra thì sáng mai khi trở về, chúng tôi sẽ xin phép được nghe ngài kể lại cho biết.

*
Chẳng mấy chốc mọi người đều rời nhà ra đi, chỉ còn một mình Muso ở lại trong căn phòng có đặt thi hài. Trước thi hài là những đồ cúng như vẫn thấy trong mọi tang lễ. Có một ngọn đèn nhỏ leo lét cháy. Muso cũng đã tụng xong bài kinh cầu siêu cho người chết. Xong xuôi đâu đấy, Muso bắt đầu ngồi thiền, trầm tư mặc tưởng rất lâu.. lâu lắm..Muso vẫn còn ngồi yên. Trong ngôi làng nhỏ không còn ai, chẳng có một tiếng động nào...
- Bẻ cành hả !
Tôi nghe rõ mồn một giọng nói ấy ở ngay trên đầu tôi. Tôi vịn thân cây đứng lên, đưa mắt đã bị hoa cả lên nhìn quanh tìm nơi phát ra giọng nói ấy. Ồ, tôi bỗng thấy lạnh cả sống lưng. Một con khỉ từ trên vách núi sáng rực dưới ánh nắng mai, đang chậm rãi tuột xuống. Tất cả những gì lâu nay ngủ yên trong tôi, bỗng nhất loạt sáng lóe lên.
- Xuống đây nào. Tớ làm gẫy cành đấy
- Cây ấy là của tớ.
Hắn từ trên vách đá tuột xuống, trả lời tôi như thế, rồi tiến về phía miệng thác. Tôi bèn thủ thế. Hắn nhíu mày làm cái trán bóng lưỡng nhăn lại thành nhiều nếp, đưa mắt nhìn chòng chọc bộ điệu của tôi, rồi cười nhe hàm răng trắng nhởn. Cái cười của hắn làm tôi cáu tiết. Tôi hỏi:
- Nhìn tớ buồn cười lắm sao ?
Hắn đáp:
- Ừ, buồn cười lắm. Đằng ấy vượt biển tới đây hả.
- Ừ.
Tôi vừa nhìn những gợn sóng nước từ phía miệng thác đang sủi lên rồi không ngớt lan xa vừa gật đầu trả lời hắn. Tôi đang hồi tưởng lại lúc còn phải giam mình trong cái thùng gỗ chật hẹp tù túng.
. Quỳnh Chi :
Mưa xuân
Sáng nay lất phất mưa xuân
Cúi đầu lặng lẽ âm thầm tiễn đưa
Những cành rũ xuống trong mưa
Đài hoa ở lại còn ngơ ngác buồn

Nửa khuya gió tạt mưa tuôn
Thương hoa bạc mệnh trời buồn phải không ?
Nguyện xin khi đã lìa trần
Thành ngôi sao sáng về bên đỉnh trời

 Quỳnh Chi  (Ngày mưa, 14/4/2009)
Sóng Việt Đàm Giang :
Nếu ai có dịp đi thăm Washington D.C. chắc chắn không thể nào không đi ngang hay thăm viếng Đài Kỷ Niệm Washington với một obelisk rất cao.

Đài kỷ niệm Washington cũng là đài có obelisk đầu tiên mà người viết được có dịp chiêm ngưỡng tận mắt vào năm 1977. Rồi trong thời gian hơn ba chục năm kế tiếp, người viết đã có dịp được thấy từ một obelisk gốc Ai cập ở công trường La Concorde , Paris, Pháp trong chuyến thăm viếng Paris, một obelisk ở Central Park, New-York City, NY; đến một số obelisk dựng rải rác tại một số công trường ở thành phố Rome, Italy; và gần đây hơn, một số obelisk ở Cairo, Luxor -Ai cập, và một obelisk ở Caesarea - Israel vào cuối năm 2008.

Nguồn gốc và lịch sử một số obelisk cổ trên thế giới là đề tài cho bài viết này.

. Quách Giao (sách):
Viết về bạn mình chỉ cốt ghi lại những gì bạn nghĩ và viết. Nhất là cách sống của bạn. Mình không có ý định viết lời nói đầu song nỗi niềm thương nhớ không nguôi nên mình đành trích nguyên bài bình thơ Như Sương của bạn:
Đọc Bài Như Sương
"Đây là một bài thơ tư tưởng trong khung cảnh của cuộc đời. Cảnh bình minh có sương lóng lánh trong lòng hoa. Nhìn vào giọt sương nhà thơ chợt thấy hình bóng mình. Sương và người cùng có một cảm giác như nhau:
Lòng hoa
đọng ngọc
lung linh
thõng tay
soi mặt
thấy mình
như sương.
Cả vũ trụ được thu vào trong giọt sương. Bình minh cũng là vũ trụ. Lòng thi nhân hòa cùng với cảnh bình minh. Đẹp và trong sáng, trẻ trung. Sương đọng trong lòng hoa, cuộc đời chứa trong bình minh.
- Thấy mình ... như sương   ( ngày giỗ đầu  GS Lê Văn Tâm : 09-05 Â l. / 01-06-09)
. Lê Văn Tâm
Đất là một đối tượng rất quen thuộc, rất bình thường đến nổi không gợi được sự chú ý, sự hấp dẫn hoặc thú vị nào. Rất nhiều người nghĩ rằng sự quan tâm và bình luận về đất là vấn đề riêng của mọt số người có liên hệ đến các nghành nghề và lãnh vực như nông lâm nghiệp, địa chất, thổ nhưỡng... Với họ "tấc đất tấc vàng" chỉ là một giá trị "lý tưởng" trong mối tương quan giữa "ruộng và đất" như một câu ca dao đã ví von: "Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang, Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu"

Quan điểm này tuy phổ biến song rất hời hợt. Nhiều kinh nghiệm lịch sử và bằng chứng cụ thể đó đây khắp thế giới đã xác định rằng có những giai đoạn và hoàn cảnh, để bảo vệ và duy trì sự no ấm và nền độc lập của quốc gia, sự bảo vệ đất phải được nâng lên hàng đầu và mối quan tâm về đất phải được trở thành mối quan tâm chung (Từ đất dùng ở đây xin hiểu là lớp đất mỏng trên cùng của mặt đất, giàu chất dinh dưỡng hữu cơ, nơi mà giới động vật và thực vật phát triển hoàn chỉnh, phong phú).

Sau đây là một số lý do khiến phải suy nghĩ về tình trạng tổn thất đất đai tại Việt Nam và về sự cấp bách cần có kế hoạch với chương trình đầu tư để bảo vệ nó:

. Laiquangnam :
Ba khuôn mặt lớn về dân tộc học của đất nước tôi đã để lại trong lớp hậu bối "tỉ như chúng tôi" nhiều ngưỡng mộ đó là các ông Toan Ánh ( miền Kinh Bắc ), Sơn Nam (miền sông nước Nam bộ ), Nguyễn Văn Xuân ( đất Quảng nam ). Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam thì đã ra đi, nay chỉ còn mỗi cây đại thụ Toan Ánh lặng lẽ ở tuổi 95 như một chứng nhân.

Bắc Ninh là một tỉnh thuộc miền Bắc nước Việt Nam, Đời Hồng Đức ,triều Lê gọi là Kinh Bắc. Miền đất Kinh Bắc là vùng đất địa linh nhân kiệt, quê hương của Kinh Dương Vương và tám đời vua Nhà Lý, nơi hội tụ của kho tàng văn hoá dân gian, nơi có làng tranh dân gian Đông Hồ; nơi đó là quê ngoại của thi hào Nguyễn Du.

Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc từ khi lập quốc cho tới cuối thế kỷ19, vùng đất văn vật này đã cống hiến cho đất nước 17 trạng nguyên và 622 tiến sĩ . Toan Ánh là người con xuất sắc của quê hương này.


 . Nguyễn Xuân Quang :

 . Gerorges Nguyễn Cao Đức :
A la fin de ce mois de février, ou au pire au tout début de mars, doit démarrer la raffinerie de Dũng Quát, la première de ce genre au Viet Nam, premier pas vers une vraie politique nationale du pétrole. En effet, et à ce jour, le pays doit importer le pétrole raffiné, et doit vendre du brut, ce qui n’est pas satisfaisant, le produit fini étant toujours plus intéressant financièrement, et apportant un minimum de maîtrise du cycle pétrolier, début d’indépendance en ce domaine.
On ignore parfois que le Viet Nam est le 3è producteur de pétrole en Asie du Sud-Est désormais, avec plus d’une cinquantaine de champs pétrolifères sous-marins existants, sur lesquels une dizaine de sites d’extraction fonctionnaient déjà en 2006 (une vingtaine en 2008-2009), débitant près d’un demi-million de barils quotidiennement, dans les eaux relevant de la souveraineté vietnamienne. Ce qui agace quelque peu la Chine, pays dont le développement effréné entraînant des besoins pétroliers énormes a expliqué son invasion des îles côtières vietnamiennes manu militari récemment...
LaiQuangNam giới thiệu :
Mạnh Giao
孟    郊

Mạnh Giao là nhà thơ Đường thuộc trường phái khổ ngâm. Thơ ông cô đọng, ông tài hoa trong dòng ngũ ngôn và tuyệt cú. Bài Du tử ngâm sau đây là bài nổi tiếng nhất của ông. Bài được viết sau khi ông nghe lời mẹ thử thi tiến sĩ lần nữa (lần thứ ba), lúc ấy ông đã 46 tuổi và mẹ ông đã đúng, ông thi đỗ lần này. Mãi đến năm 50 tuổi, ông mới được bổ đi nhậm một chức quan nhỏ là huyện úy Lật Dương, tình Giang Tô; tại đây trong những ngày đầu nhậm chức, khi suy nghĩ về việc rước mẹ hiền lên; lòng thương nhớ mẹ và bài thơ này được khai sinh.
Du tử ngâm
Từ mẫu thủ trung tuyến
Du tử thân thượng y
Lâm hành mật mật phùng
Ý khủng trì trì quy
Thuỳ ngôn thốn thảo tâm
Báo đắc tam xuân huy.

 Trần Xuân An :
Nhiều nhà nghiên cứu đã đi đến một kết luận: Đạo Phật là một tôn giáo vô thần. Tuy nhiên, như bất kì kết luận khoa học nào, nó có thể là điều rút ra từ nhiều luận cứ, luận chứng được khảo sát ở nhiều mức độ khác nhau. Khảo sát một cách nông cạn, không bao quát hết mọi vấn đề hay khảo sát một cách sâu sắc, đi vào cốt tuỷ đối tượng nghiên cứu, người ta đều có thể đi đến kết luận giống nhau, mặc dù là kết luận non nớt hay kết luận già dặn! Vì thế, giá trị của kết luận còn tuỳ thuộc vào quá trình, công phu nghiên cứu, chiêm nghiệm.

Cũng kết luận như thế, Đạo Phật là một tôn giáo vô thần, nhưng luận cứ, luận chứng của tôi, tuy qua một vài bài tiểu luận và nhiều bài thơ, chương đoạn tiểu thuyết trước đây, chắc chắn là một phát kiến rất riêng. Nhưng tôi cũng không thể ngừng lại ở đó, không đào sâu vào phát kiến của mình, củng cố thêm kết luận đã nêu. Và thật không yên tâm chút nào, nếu không xác lập giới hạn khái niệm, thế nào là “vô thần”, theo nhận định của mình.

Số 35 / 08 - 05 - 2009

Những bài đưa lên ngày 08/05/2009

 
 
Quê Hương - Phong tục 

. Nguyễn Dư  : 

Ngày nay, hầu như khắp nước Việt Nam chỗ nào cũng dùng đèn điện. Nhớ lại, mới ngày nào...

- Chờ độ năm phút, Dung cũng ngồi dậy. Nàng sang phòng khách. Một tên người nhà ủ rũ ngồi ngủ gật trên một cái ghế tràng kỷ, dưới một ngọn đèn măng sông đã tối một nửa búp đa, vì cạn dầu. Qua phòng khách, Dung đẩy cửa vào buồng mẹ thì thấy mẹ đã ngủ kỹ. Nàng khêu nhỏ ngọn đèn dầu ở bàn rồi rón rén quay ra.

Dung tìm bao diêm ở ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt ngọn lửa ở đèn dầu xăng. Nhìn ra sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm vào túi (...). (Vỡ đê (1936), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 2, Văn Học, 1987, tr. 198).

Vũ Trọng Phụng kể tên nhiều kiểu đèn của những năm 1930. Đèn măng sông (manchon) thì rõ ràng là đèn của Pháp. Nhờ cái tên gọi. Còn đèn hoa kỳ? Hoa Kỳ... là Mỹ, vậy đèn Hoa Kỳ là đèn của Mỹ sao?
...


. Thu Tứ :

Theo Vũ Bằng thì phở lên tới đỉnh đâu vào khoảng năm 1952.(1) Ðỉnh nghệ thuật, tất nhiên.

Phở bò ra đời và trưởng thành trong cái thời thịt bò hiếm nhưng không hiếm lắm, nghĩa là trong cái hoàn cảnh khó mà không quá khó. Tới mức nào đó thì "cái khó bó cái khôn": ít thịt quá thì không thể nấu nên phở "đúng nghĩa". Còn nếu ít mà không quá, thì cái khó chẳng những không bó, nó lại kích thích cái khôn: chỉ một lượng vật liệu khiêm tốn mà nên tuyệt phẩm. (Dĩ nhiên phở bò không phải là món ăn ngon đầu tiên của người Việt Nam. Lịch sử dân tộc đầy dẫy những thời vật chất khó khăn, chắc chắn trong thời nào ta cũng sáng chế được các món ngon. Ta "khôn" lâu lắm rồi, chứ đâu phải đợi đến khi loay hoay nấu phở mới bắt đầu khôn!) ...


.Cát Hoàng : 

Tuần qua Nhà báo Phan Lữ Hoàng Hà rũ về quê An Thạnh - Thạnh Phú chơi cùng Đoàn Truyền hình Cần Thơ làm phim về "Những ngày xưa thân ái", nhưng đi không được lòng mình tiếc hùi hụi, bất chợt nhớ mùa sa mưa giông cùng bài hát đồng dao: Trời mưa trời gió đùng đùng 
Cha con chú Thùng đi lượm cức trâu,...
Cố hương cố quán cố nhân
đó đi đây ở dững dưng… vui buồn.
Đó với đây mặt tạn mặt tay trong tay mà ngở trong mơ, chuyện tưởng dững dưng mà hồn xuyến đọng. Đó đưa tía về khóc với cố hương: "Con chim khách mở góc ký ức khơi ngõ lòng thơm miền nhớ/Sóng Hàm Luông khuấy bến đứng khua nhịp chiều/Cầu Rạch Miễu dợn nước sông Tiền dựng bóng cha bạc tóc/Cố hương!/Cố hương!/Nghe tiếng cội nguồn vọng xác lá loang ngân… ("Khóc với cố hương" - HTK) mà đây hổng có duyên thấy nước mắt chảy....


Có một làng quê nghèo mà đẹp nằm bên bờ Sông Cửa Đại (còn quen gọi là sông Tiền); làng mang tên Bến Cát.  Bến Cát lắm cát, đã có thời người qua đường đi chân trần khi trưa hè thường phải cắm đầu cắm cổ chạy một đoạn để trú chân vào bóng cây mà thấy chân còn bỏng rát. Làng cũng lắm vườn cây cho bọn học trò con nít  tha hồ leo trèo nhẳn nha mãng cầu, mít, xoài, khế, ổi,…Nhưng khoái nhất có lẽ là món duối - thứ trái ngòn ngọt, thơm thơm vừa có dư vị đăng đắng, chua chua, chát chát ăn từ trưa tới chiều còn đa đã cái miệng; cây duối thì bự chảng ông cả, nhánh dai dẽo, leo lên cao nằm vắt võng ngắm tư bề nhà cảnh  lại càng ngon càng sướng....

. Nguyễn Văn Trần :
Chúng ta ai cũng biết miền Nam Việt Nam chạy dài tận mũi Cà Mau thành hình theo bước Nam tiến của tiền nhơn .
Năm 1658, di thần nhà Minh , "Phản Thanh phục Minh", với 3000 quân tinh nhuệ, với chiến thuyền và võ trang hùng hậu, đến Thuận Hóa để xin được Chánh quyền Việt Nam giúp đỡ. Chúa Nguyễn, Hiền Vương, nghĩ nếu từ chối và đuổi đi, thiø đám tàn quân nầy vì cùn đường có thể đánh phá ta, nên tiếp đãi niềm nở, còn khoản đãi, phong chức và cho phép vào phía nam khẩn hoang, lập nghiệp ở Biên Hòa, Cù Lao Phố, và Định Tường với lời chỉ dẫn "đó là vùng đất mới của ta".
Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch là hai tướng nhà Minh chỉ huy lực lượng hải thuyền di tản về phương nam với lòng mưu cầu phục Minh sau này .
Tướng Trần Thắng Tài vâng lệnh Chúa Nguyễn dẩn một đoàn quân với chiến thuyền đi về vùng Biên Hòa để khai phá và định cư lập nghiệp. ...
.Việt Hải :
Ngày cuối tuần tôi đến thăm cậu tôi, cô em họ học được món ốc len xào dừa, tôi được dịp nhâm nhi món này mà lòng bồi hồi nhớ quê hương, nhớ bến Ninh Kiều ngày xưa lắm. Minh Châu, cô em họ tôi nhắc tôi viết về loài ốc hay món ốc. Hôm nay tôi muốn cô đọng ý tưởng về một loài ốc có hình thể cấu trúc hay dáng vẻ rất xinh đẹp và rất "bắt mồi", đó là ốc len. Đặc biệt là món ốc len xào dừa, do Minh Châu ở Newport Beach tiếp đãi hôm nào, em họ tôi một người phụ nữ rất đảm đang về bếp núc...
. Trần Mỹ Thanh : 
Tôi sang Mỹ đã lâu mà sao tâm hồn lại còn để lại ở một góc nào đó ở quê hương. Mầy hôm nay Cali trời mưa, tôi nhớ quê nhà. Ở Việt Nam khi trời mưa cho không gian ẩm ướt, để cây cối xanh tươi. Một loài tôi còn nhớ là rau càng cua. Xin tặng bài đến các đồng hưong Kiên Giang của tôi.

Rau Càng Cua là loại rau dân dã, bình dị, hầu như hiện diện khắp quê hương nước Việt, vùng địa phương nào cũng có. Rau càng cua mọc tự nhiên như rau sam và mọc nhiều vào mùa mưa khí hhậu ẩm ướt. Mùa nào người dân cũng có rau càng cua. Loại rau này mọc thấp, chỉ cần rảo quanh sân vườn, hàng hiên bên nhà là có thể hái được rau một cách dễ dàng. Người dân nông thôn hay thành thị đã ăn gỏi rau càng cua rồi thì hầu như nó sẽ được ưa thích....

Văn học - Luận - Tư tưởng - Thời đại -Ngữ Văn
. Thảo Đường Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh : 
Ở nước Trung Hoa, từ thời Chu, Tần, (trước Chúa giáng sinh) có rất nhiều học giả ra đời, mỗi nhà đều có viết sách, trình bày học thuyết của mình, với mục đích sửa đổi chế độ, mong đem lại hạnh phúc ấm no cho con người.
Số học giả ấy không phải chỉ một vài người, và số tác phẩm viết ra không phải chỉ một vài cuốn, cho nên mới gọi là Bách Gia Chư Tử, hay gọi một cách giản dị hơn là Chư Tử.
Người xưa cũng gọi Chư Tử là các tác phẩm của những nhà học giả ấy viết ra. Danh từ này được thấy dùng đầu tiên trong pho sách Thất lược....
. Cao Xuân Tứ : 
Thực tình tôi do dự trước khi viết bài này bởi vì tôi nghĩ rằng muốn bàn chuyện khoa cử ngày xưa trước hết mình cũng cần có tí vốn liếng chữ Hán (để tra khảo sách Hán Nôm qua văn bản gốc mỗi khi cần) ít ra như cỡ ông Trần Văn Tích, mà tôi lèm nhèm chỉ biết dăm ba chữ loại "tam tự kinh". Thêm nữa lại có vấn đề "hồi tỵ" khi phải đề cập tới những chuyện liên quan đến họ hàng xa gần, dù là chuyện khoa cử lăng nhăng. Nhưng rồi nghĩ lại biết đâu những dòng tản mạn dưới đây có thể giải đáp phần nào một vài thắc mắc có tính cách văn bản học. Không biết chữ Tàu, chữ Nôm thì nhờ người khác đọc, dịch hộ, chẳng chết ai! Và cũng mong rằng các nhận xét cụ thể, kinh nghiệm "thực địa", chút khơi mào về tư liệu, có thể mở ra hướng nghiên cứu mới, đem lại một chút thoáng mát vào một đề tài mà theo tôi, rất là khô khan nếu không có ông...Tú Xương nhúng tay vào một trăm năm trước! 
Gần dây trên tạp chí Hợp Lưu số 63 có bài viết của bà Nguyễn Thị Chân Quỳnh ghi lại những kinh nghiệm, những khó khăn đã gặp phải trong quá trình nghiên cứu chế độ thi cử tại Việt Nam thời trước....
. Nguyễn Thị Chân Quỳnh :
Vì mục lực kém tôi không đọc được trên mạng nên đến bây giờ, cuối tháng 3/2009, tôi mới được một người chuyển cho bài "Sờ râu các cụ khảo quan" của ông Cao Xuân Tứ (CXT), viết từ năm 2002, phê bình tôi sau khi đọc bài "Vì sao tôi nghiên cứu Khoa cử" của tôi (Hợp Lưu số 63, năm 2002).

Bài dài tới 13 trang, chia làm 5 phần, song chỉ ba phần đầu có liên quan đến tôi, phản bác ý kiến của tôi là Quốc Triều Hương Khoa Lục (HKL), mà tác giả là Cao Xuân Dục, đã chép sai. Dựa vào ảnh của Salles chụp lễ Xường danh trường Hà Nam khoa Đinh Dậu, mà Daney in lại một phần trong Quand les Francais découvraient l'Indochine (Khi người Pháp khám phá ra Đông Dương) tôi chứng minh CXD mới là Chủ khảo trường Hà Nam khoa Đinh Dậu (1897) chứ không phải là Chủ khảo khoa Giáp Ngọ (1894) như HKL đã chép....
 

. Trần Viết Ngạc : 
Tự Đức là vị vua trị vì lâu nhất của triều Nguyễn (36 năm) và trực tiếp lãnh đạo công cuộc chống thực dân Pháp. Chỉ hai năm sau khi nhà vua băng hà, Kinh đô Huế thất thủ (5/7/1885) và Pháp đã dựng lên vua Đồng Khánh để đối đầu với vua Hàm Nghi.

Chính vì vậy, vua Tự Đức phải gánh chịu trách nhiệm về sự suy vong của nhà Nguyễn cũng như của đất nước, dân tộc.

Nhà vua nghĩ gì về trách nhiệm đó? Ông đã lý giải thế nào về sự bất lực trước nhiệm vụ đề kháng xâm lược?... Dụ Tự biếm là một bản tự phán xét qua đó sẽ giúp chúng ta hiểu nhà vua, một số châu phê (trích từ châu bản) sẽ soi sáng một phần nhân cách của nhà vua. Đó là nội dung khiêm tốn của bài viết nhỏ này.

. Trần Xuân An : 
Khởi đầu một bài nghiên cứu, Stephen O'Harrow (2) đã bày tỏ nỗi lo âu về nguy cơ rủi ro có thể gặp phải của các nhà nghiên cứu sử học về giai đoạn cổ đại trước những phát hiện mới của giới khảo cổ học. Điều đó chứng tỏ việc nghiên cứu các tư liệu dã sử, các ghi chép đời sau về thời kì hồng hoang, sơ khai của bất kì dân tộc nào trong các bộ sử thành văn luôn luôn bị thách thức bởi các di chỉ khảo cổ còn nằm đâu đó dưới lòng đất. Mặc dù các công trình sử học có vai trò hướng dẫn, gợi ý cho công tác khảo cổ, nhưng chính các di chỉ khảo cổ sẽ được phát hiện một ngày nào đó lại có thể làm sụp đổ các công trình sử học kia.

Tuy nhiên, nỗi âu lo ấy không hề làm chùn bước các nhà khoa học lịch sử. Giai đoạn huyền sử lung linh thời kì cổ đại vẫn luôn mời gọi, lôi cuốn sự khám phá của họ. Và họ ý thức rõ rệt, rủi ro nếu gặp phải, có thể khiến xô đổ công trình hàng trăm, hàng ngàn trang sách của họ, lại là hồng phúc của khoa học lịch sử...
 

. Nguyễn Tường Bách :
Câu chuyện của tôi muốn nêu ra là: "Những chuyển biến tâm linh hiện nay trong xã hội có ý nghĩa gì".

1. Sự vật chất hóa: Từ "Không" đến "Có"

Hãy tưởng tượng ta có ý định viết thư cho một người bạn. Nếu ý định đó đủ mạnh, nếu ta có thì giờ, có giấy có mực, lá thư đó sẽ thành hình. Khi đó ý định của ta được vật chất hóa thành lá thư. Lá thư có thân, có tâm hẳn hoi. "Thân" của nó là giấy là mực. "Tâm" của nó là thông tin chứa trong lá thư.

Hãy lên cao hơn một tầng nữa và xét thân thể chúng ta. Thân thể chúng ta, theo quan niệm Phật giáo, cũng là một sự vật chất hóa của một dòng năng lực có tính cá thể. Dòng năng lực đó, điều mà Phật giáo gọi là dòng nghiệp lực hay dòng tâm thức, cũng cần đủ mạnh, đủ tinh cha huyết mẹ, đủ nhân duyên, đủ điều kiện, mới tái sinh trong thế giới loài người này... 

. Nguyễn Nam Trân ( dịch ): 
Ngày nay khi nói đến thơ Nhật, người ta chỉ nghĩ đến Haiku. Điều đó không phải không đúng vì phạm vi phổ biến của thể thơ này quá rộng lớn. Tuy nhiên, thơ Nhật hãy còn là Ca dao cổ đại (Kayô), Hòa ca (Waka), Hán thi (Kanshi) và thơ mới (Shintaishi) nữa. Trong đó, Hòa ca đóng vai trò quan trọng nhất vì thừa hưởng dư ba của ca dao, tiếp nhận ảnh hưởng cổ thi Trung Quốc, phản ánh từ rất sớm mọi khía cạnh của tâm hồn người Nhật thông qua một vốn liếng kỹ thuật tu từ phong phú. Cũng cần phải nói là nhờ Hòa ca (Waka) xưa kia , ta mới có Đoản Ca (Tanka), Bài Cú (Haiku) ngày nay.

Việc giới thiệu thơ Hòa Ca, tinh hoa của văn chương cung đình thời trung cổ, do đó trở thành cần thiết để hiểu văn hóa Nhật Bản. Không thể nào hiểu một cách thấm thía Murasaki Shikibu, Bashô, tuồng Nô, kịch Kabuki, Tanizaki, Kawabata, ca nhạc mới... mà thiếu kiến thức Waka. 
 

. Nguyễn Nam Trân ( biên dịch ) :
Truyện thiền không những có tính tôn giáo, triết lý mà còn có giá trị văn học cao. Nó mang ý nghĩa siêu hình, với hình thức ngụ ngôn, bố cục giản lược, trào lộng, kết thúc đột ngột, lại dùng những phương pháp tu từ đặc biệt như điệp ngữ, nghịch lý, đa nghĩa, chữi để mà khen, buông thỏng nửa chừng không kết thúc, lấy câu hỏi để trả lời câu hỏi vv…Đó là đặc sắc của truyện thiền. Cho nên đọc chuyện thiền là vừa học đạo  vừa thưởng thức một tác phẩm văn chương kỳ thú.

Tuy trong lòng lúc nào cũng có một ngôi chùa làng, thời thơ ấu từng ngồi một năm trên ghế trường Bồ Đề, lại từng giao lưu thân mật với các bạn Phật tử tại Paris trong nhiều thập niên, người biên dịch không phải là đệ tử nhà Phật, cũng chẳng biết bao lăm về thiền. May mắn là cách đây gần bốn mươi năm đã được chút kiến thức nhập môn qua những truyện thiền đầu tiên được dịch ra tiếng Việt trong Tập San Gió Nội (ở Pháp) in bằng ronéo. Gần đây, trên mạng lại được thưởng thức bản dịch các tập Lâm Tế Lục, Bích Nham Lục, Vô Môn Quan, Uyển Đăng Lục, Thập Ngưu Đồ… của các cao tăng và chư hiền. Nhân vì muốn lợi dụng vị trí của mình đang sống trên đất Nhật, nên chúng tôi mới thử tìm hiểu xem các ông bạn láng giềng vốn có truyền thống Thiền tông lâu đời này đã tiếp xúc với thể loại này bằng cách nào.
 

- VÔ MÔN QUAN dưới mắt người Nhật  (Bản mới ngày 05/05/09):
Truyện ngắn - Ký - Tạp văn - Biên khảo
. Phạm Xuân Hy :
Nhân có người bạn già vong niên đến thăm tôi, ngày trời tháng bụt, lại lún phún mưa rầm, ngồi trong nhà rỉ rải truyện phiếm dông dài, gió trăng mây nước, lan man  những truyện cà kê dê ngỗng. Con hổ giấy. Con hổ thật. Con chồn con cáo. Con chuột con gà. Lại biết tôi có biết đôi chút chữ nho, anh bèn lấy bút viết ra mấy chữ dưới đây: 
雞鷄  鸡 酉
KÊ   KÊ   KÊ  DẬU 
Bảo tôi cắt nghĩa và cho biết những sự tích liên quan đến gà. Bị hỏi đột ngột, bất ngờ, nhất thời tôi tỏ ra lúng túng, đỏ mặt, không biết trả lời bạn tôi ra sao. Vả, biển học mênh mông, chữ nghĩa chập chùng, cái vốn chữ nho của tôi cũng chỉ có giới hạn, nên không dám nói sằng nói bậy. Tôi đành khất nợ với bạn. Xin cho tôi đựợc phép mở sách ra đọc, và trả lời bạn sau. 
Vì thế, hôm nay mới có bài viết này.
. Phạm Vũ Thịnh dịch :
-"Nhưng cậu có biết Hazama là kiếm sĩ phái Mugai một thời đã nổi tiếng là tay kiếm kiệt xuất trong toàn phiên trấn, chỉ có một người có thể thắng được Hazama mà thôi, và đó là Katagiri Munezo, không nào?" 
-"Thế kia à?". 
Ogata thốt lên, quay sang nhìn sững Munezo. Munezo thân người tầm thước, dung mạo cũng không có gì hơn người, trông chỉ là một chàng trai bình thường mà thôi. Mắt Ogata lộ vẻ ngạc nhiên. 
-"Chính ta đã chứng kiến trận thi đấu mà Katagiri đã thắng Hazama ấy. Ba năm trước đấy chứ gì?" 
-"Thưa, bốn năm trước ạ". Munezo nhắc. 


Tôi gặp nàng trong một tiệc cưới của người quen, từ đó mà thân nhau. Chuyện đã 3 năm trước. Tôi và nàng cách nhau đến gần một con giáp, nàng 20, tôi 31. Nhưng mà điều ấy chẳng phải là chuyện quan trọng. Đúng vào thời kỳ ấy, tôi có lắm chuyện đau đầu, mà thật tình cũng không có thời giờ rảnh để mà so tính chi li chuyện tuổi tác chênh lệch. Nàng thì ngay từ đầu đã chẳng hề nghĩ đến chuyện tuổi tác, mà lúc ấy, ngay cả chuyện tôi đã kết hôn cũng chẳng là vấn đề. Có vẻ như nàng tin rằng chuyện tuổi tác hay gia đình hay lương bổng cũng chỉ thuần túy là chuyện bẩm sinh, như kích thước bàn chân, hay giọng nói cao thấp hay hình dạng móng tay, nghĩa là những thứ có suy nghĩ đến cũng chẳng làm gì được. Mà nghĩ cho cùng, như thế cũng có lý. 
Nàng lúc ấy vừa theo học kịch câm độc diễn ở một người thầy nổi tiếng là ông gì gì đấy, vừa làm người mẫu quảng cáo để sinh sống. Thật ra tính nàng không ưa chuyện phiền phức nên rất thường từ chối công việc mà người đại diện giới thiệu đến, do đó thu nhập quả thật chẳng bao nhiêu. Có vẻ phần thiếu thốn về thu nhập của nàng đã được bù đắp vào do hảo ý của vài người bạn trai. Tất nhiên hư thực ra sao thì tôi không rõ. Tôi chỉ hình dung ra thế từ vài khúc đuôi vụn vặt trong những lời nàng nói ra mà thôi. 


Diễn văn của Murakami Haruki nhận giải thưởng Jerusalem của Israel hôm 15/02/2009  :
Kính chào quý vị. Hôm nay, tôi đến Jerusalem với tư cách tiểu thuyết gia, nghĩa là một chuyên gia bịa chuyện. Tất nhiên, chẳng phải chỉ có tiểu thuyết gia bịa chuyện mà thôi. Chính trị gia cũng bịa chuyện, là điều ai cũng biết. Những nhà ngoại giao và những tướng lãnh tùy lúc mà bịa chuyện trong giới của họ, không khác gì những người bán xe cũ, hàng thịt, hay thợ xây cất. Tuy nhiên, chuyện bịa của tiểu thuyết gia thì khác với những giới khác ở chỗ chẳng ai phê phán tiểu thuyết gia là vô đạo đức khi bịa chuyện cả. Mà thực tế, tiểu thuyết gia càng khéo léo bịa đặt những chuyện bịa càng to lớn và tinh xảo, thì lại càng được quần chúng và các nhà phê bình khen ngợi. Tại sao lại như thế? 

. Quỳnh Chi : 
Thằng nhỏ giúp việc Senkichi khép nép ngồi ngay ngắn phía sau người nhân viên trẻ tuổi và cách người ấy một khoảng cách cho phải phép, hai tay để trước bụng dưới chiếc tạp dề, nghe mẩu đối thoại ấy thì nghĩ thầm "À, các bác ấy đang nói chuyện đi ăn ở hiệu sushi đây ". 

Trên phố Kyobashi có hiệu S đồng nghiệp với hiệu cân của Senkichi. Thỉnh thoảng Senkichi được sai chạy việc đến hiệu S, nên gì chứ chỗ có hiệu sushi ấy thì nó biết rõ. Senkichi chỉ mong chóng được trở thành nhân viên của hiệu, để cũng được nói bằng giọng của người sành ăn như thế và có danh phận hẳn hoi để có thể nghiễm nhiên vén chiếc màn cửa nô-ren của hiệu sushi ấy mà bước vào

. Nguyễn Nam Trân ( dịch ):
Có khách tới thăm. Hai chân chụm lại hướng về phía cửa ra vào, mặt úp xuống, nằm sóng sượt. Khách đã chết. 
Dĩ nhiên A. không dễ gì ý thức ngay tình cảnh lúc ấy. Phải mất một vài giây trước khi sự kinh ngạc làm hắn choàng ngợp. Mấy giây đồng hồ đó như được phong kín trong một sự yên tĩnh đến nghẹn thở, giống như tờ giấy trắng căng phồng hơi điện. 
Tiếp theo đó, bao nhiêu vi ti huyết quản chung quanh vành môi A. bắt đầu co rút thật gấp, đồng tử hắn mở banh, cảnh vật chung quanh trắng bạch ra. Lỗ mũi hắn chợt trở nên rất thính, ngửi thấy cả mùi da thịt còn tanh dậy lên. Người tên A., chủ nhân căn hộ số bảy trong chung cư M. này, như được cái mùi ấy ùa tới đánh thức, run bắn lên và bắt đầu hiểu được sự nghiêm trọng của tình hình. Một người đàn ông không quen không biết, không ai cho phép, đã đến nằm chết trong phòng hắn. Chỉ cần nhìn cánh tay phải bị bẻ quặt một cách không được tự nhiên phía trên đầu thì chẳng còn gì để nghi ngờ nữa, đúng là người khách đó đã chết thật. 
. Nguyễn Thị Dị : 
Chợt người Tây già lên tiếng : 
- Bà người gốc gì ? 
- Cha nội ơi thật khổ cho con, hôm nay trúng mối ... Kim thầm nghĩ. Vẫn tiếp tục kiểm soát những tờ báo, nàng hơi sẵng giọng : 
- Người Việt Nam. 
- Tôi đoán không sai mà . 
Một thoáng ngập ngừng, người Tây già tiếp tục : 
- Tôi cũng là người Việt Nam như bà... 


Nhà gare Chaumont từ từ hiện ra, bánh xe sắt nghiến chạm đường rầy kêu ken két, theo đà thắng tàu từ từ ngừng hẳn lại. Hành khách đứng đợi dưới sân gare đông nghẹt nhưng người xuống lại thưa thớt. 
Thảo nhìn mọi người đang cố chen chúc được đứng gần cửa toa xe rồi sẽ lên trước để tìm một chỗ ngồi. 
Trong đám đông Thảo nhận ra một gương mặt Á châu...Một người đàn bà cao tuổi, ước chừng hơn 70, đứng sau cùng, dáng người thấp bé gần như bị che khuất trong đám đông những người Tây phương to lớn. Đầu bà đội một chiếc mũ len màu xám có chiếc đỉnh nhọn che phủ vầng trán bị giữ lại bởi một cặp kính trắng, người khoác một chiếc manteau, tay phải kéo một chiếc va ly có bánh xe lăn, trên lưng đeo một chiếc túi khá đầy. Bà ngơ ngác nhìn mọi người, nhìn dọc theo hàng cửa kính trên xe, ánh mắt bà chạm gặp mắt Thảo, bà mỉn cười rồi lắc đầu như muốn nói " tôi không chen được với mấy ông bà Tây này ...". Thảo cũng mỉn cười đáp lại qua màn kính . 

. Nguyễn Chính : 
Pho sách bìa bọc vải đỏ, dày cả gang tay. Mỗi lần muốn giở ra xem, bác Cả lại phải thắp hương khấn vái lầm rầm một hồi. Tội nghiệp, sinh thời bác Cả để mắt đến từng nhà trong họ tộc, nhắc nhở, uốn nắn, chỉ vẽ làm cái này, làm cái kia, từ việc lớn đến việc nhỏ và không bao giờ quyên cái điệp khúc: "Sách cụ dạy như thế, như thế...". Cả họ chẳng một ai dám cãi. Khệnh còn nhớ, vụ mùa năm ấy, cả làng Trái Cầu vừa ra khỏi trận đói vàng mắt do nước lụt hai năm liên tiếp. Không ai dám cấy khu Đồng Lún, vì sợ lại mất ăn. Bác Cả mở sách rồi nói với cả họ: "Cứ Đồng Lún mà mần". Mưa thuận, gió hòa, mùa năm ấy trúng to. Hôm cúng tổ cơm gạo mới, bác Cả phán một câu làm họ nhà Khệnh ai cũng sướng cái bụng: "Nhờ sách, cứ đà này chả mấy chốc mà lên thiên đường". Và pho sách được cả họ coi như  báu vật. Tiếng lành đồn xa. Một hôm có người đàn ông đi giày đen, mang kính trắng, tự giới thiệu là người của khảo cổ tìm đến, khẩn khoản xin được mượn pho sách đem về giám định, nghiên cứu. Nhìn khách lạ hồi lâu, khuôn mặt chữ điền cùng cái cằm bạnh truyền thống của bác Cả đã lấm tấm mồ hôi, đỏ như mặt giời. Không kể đến phép lịch sự, bác Cả gầm lên như sấm: 
- Láo ! Giám...giám cái gì ? Cút ! 
. Trịnh Nguyễn Đàm Giang : 
Hình một con rắn cuốn quanh một cây gậy đã từ lâu được coi như biểu tượng của ngành Y. Tuy nhiên có một thời hình hai con rắn cuốn quanh một cây gậy và trên gần đầu cây gậy có một đôi cánh xoè ngang cũng đã được coi như biểu tượng cho ngành Y. 

Hiện nay biểu hiệu một con rắn cuốn quanh một cây gậy là tượng trưng chính thức của ngành Y. Hình hai con rắn cuốn quanh một cây gậy có đôi cánh thường được dùng làm biểu tượng cho những tổ chức, những sản phẩm liên quan đến ngành y. 
Bài viết ngắn này nói về nguồn gốc và sự khác biệt giữa hai biểu tượng cùng lý do đã gây nên sự lầm lẫn trong việc sử dụng hai dấu hiệu này. 
 


. Võ Quang Yến : 

Hằng năm, ở Paris, nếu vào dịp lễ Nguyên Đán, những hội đoàn người Trung Hoa tổ chức cuộc diễu hành có múa lân ở xóm Tàu quận 13 ở Paris thì những người Ấn Độ vào dịp sinh nhật thần Ganesha vào tháng Bhadrapada (tháng 8-9) cũng có làm lễ Ganesha-Chaturthi không những ở nhà thờ Ấn giáo Sri Manicka Vinayakar Alayam mà còn trên đường sá suốt xóm Chapelle quận 18. Năm ngoái 2008, lễ ấy nhằm vào ngày chủ nhật 31 tháng 8. Từ 11 đến 15 giờ đám rước bắt đầu từ các phố Philippe de Girard, Perdonnet, Faubourg Saint-Denis, Marx Dormoy, diễu qua Ordener, Barbès, Labat, Macadet rồi trở về lại Philippe de Girard. Dẫn đầu là tượng một con voi đen bằng đồng thanh thường chỉ được giữ trong nhà thờ. Theo sau là hai xe hoa trang hoàng sặc sỡ, đầy hoa đầy trái, cung hiến cho thần Ganesha và thần Skanda (em Ganesha), mỗi xe có hai sợi giây dài, to được các tín đồ nam nữ xếp hàng kéo....
. Nguyễn Quý Đại : 
Mỗi lần xuân đến rồi đi, để lại trong lòng người những hoài niệm thương nhớ bâng khuâng. Tuổi trẻ sống với tương lai, tuổi già như nắng chiều xế bóng hồi tưởng lại kỷ niệm một thời đã qua. Gần 30 năm chúng ta sống kiếp người lưu vong, với tuổi đời chồng chất thì lòng thương nhớ cố hương và hướng về nguồn, nơi chôn nhau cắt rún càng nhiều hơn và cảm thấy bất lực trước sự miên viễn của thời gian.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam trải qua một ngàn năm Bắc thuộc, gần một trăm năm nô lệ giặc Tây, hơn 20 năm chiến tranh máu lửa, nhưng dân tộc Việt Nam đoàn kết chống ngoại xâm giành độc lập và giữ gìn bờ cõi, không ai muốn rời bỏ quê hương. Biến cố lịch sử ngày 30.4.1975 chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước nhưng hàng triệu người miền Nam tiếp tục bỏ nước vượt đại dương đầy sóng gió hãi hùng, bất chấp nguy hiểm đi tìm tự do...


. Từ Vũ : 

Cuộc đời của Rousseau được chúng ta biết nhờ vào những tác phẩm tự thuật phong phú của ông để lại trong đó tác phẩm nổi tiếng nhất vẫn là Les Confessions - những lời thú nhận . Khởi sự viết từ năm 1664, tác phẩm này có chủ đích mang lại cho người đọc những hình ảnh thực sự về tác giả và cũng để phản ứng lại với nhũng lời cáo buộc của những người đối kháng ông. Rousseau nghĩ và rảo bước đi, để tư tưởng của ông tự nẩy sinh theo cảnh trí bên đường, những suy nghĩ của ông kết cấu, phối hợp để trực diện với xã hội mà ông đang trốn chạy, đang kiếm tìm miên viễn, một ngơi nghĩ không thể có được trong ông ; Tâm thần ông nhạy cảm, bốc lửa , đam mê, nghiêm khắc và thượng võ, ông chỉ có thể đề nghị với thế giới này không gì khác hơn là một đọan tuyệt toàn diện, Jean-Jacques Rousseau đã bị từ khước và bị đuổi dồn về với chính cái tôi (le moi),với nước mắt và với đức tính khắc khổ của ông. 
. Trương Thái Du : 
A . Đặt vấn đề:
Ở phần Ngu thư – Nghiêu điển sách Thượng Thư  có câu: 
申命羲叔,宅南交。平秩南为,敬致。日永,星火,以正仲夏。厥民因,鸟兽希革
Âm Hán Việt: Thân mệnh Hy Thúc, trạch Nam Giao. Bình trật nam vi (ngoa ), kính trí. Nhật vĩnh, tinh Hỏa, dĩ chánh trọng hạ. Quyết dân nhân, điểu thú hy cách.
Dịch nghĩa: “(Vua Nghiêu) sai Hy Thúc đến Nam Giao, quan sát mặt trời di chuyển về phương nam, ghi ngày Hạ chí. Lúc ngày dài nhất, sao Hỏa đầu hôm ở đỉnh đầu sẽ là ngày trọng Hạ (giữa mùa Hạ). Dân ăn mặc quần áo mỏng, chim thú thay lông”.
Ở góc độ nào đó, Nam Giao là một trạm quan trắc thiên văn. Theo công bố của giáo sư Hà Nỗ , nhóm khảo cổ của Sở khảo cổ thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc (IACASS) đã kết luận di tích đàn tế tự kiêm đài quan sát thiên văn tại làng Đào Tự, huyện Tương Phần, tỉnh Sơn Tây Trung Quốc nhiều khả năng chính là đàn Nam Giao thời Nghiêu – Thuấn. Tuổi di tích theo niên đại thiên văn xấp xỉ bằng tuổi đo bằng đồng vị phóng xạ carbon là hơn 4000 năm.
Như vậy, có chăng một truyền thống quan sát và định vị vùng đất phương nam trên cơ sở hệ qui chiếu thiên văn cổ điển của người Hoa Hạ?


Trước và trong thời Hai Bà Trưng, tiên tổ của người Việt Nam hôm nay gọi đất nước mình là gì? Đó là một câu hỏi khó. Tuy vậy, tôi cũng tạm nêu ra từ “Âu Lạc”, trong đó Âu là Đất, Lạc là Nước. Từ ghép “Âu Lạc” mang nghĩa là đất nước hay xứ sở . So sánh hơi khập khiễng thì tổ chức xã hội Âu Lạc khi ấy không khác mấy vùng đồng bào thiểu số Tây Nguyên cách đây trên dưới 100 năm. Nếu người Pháp từng kí âm “Đạ Lạch” thành Đà Lạt (nghĩa gốc là nước của người Lạch, xứ sở của người Lạch) thì người Hán cũng đã kí âm “Đất nước” thành “Âu Lạc”. Chúng ta chỉ hình dung được: dường như Âu Lạc - Đất Nước có qui mô lớn hơn Đà Lạt - Nước Lạch. 
Từ Âu Lạc xuất hiện lần đầu tiên trong Sử kí của Tư Mã Thiên. Song nó hàm nghĩa rất rộng, đó là một khu vực bao la gồm Quảng Tây, Quảng Đông và miền bắc Việt Nam ngày nay. Vương quốc Âu Lạc nửa hư nửa thực gắn với An Dương Vương hầu như chỉ là sự ghép nối vụng về các mảnh sử liệu rời rạc có sau Sử kí.
Trên một góc nhìn nào đấy thì nước Nam Việt của Triệu Đà cũng có thể mang tên bản địa là Âu Lạc. Sử kí viết về nước Nam Việt, nhưng luôn nêu rõ dân là dân Việt, tuồng như trong thông nghĩa Bách Việt (hàng trăm / nhiều tộc Việt khác nhau phía nam Trường Giang).
Vậy chủ nhân của mảnh đất Việt Nam hôm nay có phải người Việt không, hay Việt chỉ là một từ ngoại lai mà lịch sử trót dùng. 
 

. Bùi Thụy Đào Nguyên :
Lưu Bá Ôn (劉伯溫, 1311-1375) tên thật: Lưu Cơ (劉基 ), một người có nhiều tài năng ở Trung Quốc. Ông không những là người có công gầy dựng vương triều nhà Minh, một trong những nhân vật có nhiều huyền thoại; mà còn là người dám đề cao tư tưởng "quan bức, dân phản" đồng thời là tác giả "Mại cam giả ngôn", một tản văn nổi tiếng nhằm đả kích giới thống trị thối nát. 


Thủ Huồng (1) tên thật Võ Hữu Hoằng (? - ?), theo chuyện kể thì ông là người châu Đại Phố (tức Cù lao Phố, Biên Hòa), huyện Phước Chính, phủ Phước Long, nước Đại Nam (nay là Việt Nam). 
Chuyện Võ Hữu Hoằng, sơ lược như sau: 
Ngày xưa, khoảng năm 1755, ở châu Đại Phố có một người tên là Võ Hữu Hoằng. 
Ông xuất thân làm thơ lại. Trong hai mươi năm làm việc trong nha môn, ông đã thu tóm được nhiều tiền của. Sau khi vợ mất sớm lại không con, mà tiền bạc thì quá thừa thải, Thủ Huồng xin thôi việc về nhà. 


Đội Có (? -?) tên thật là Nguyễn Văn Có. Trước năm 1975, ông là một trong số người giỏi kinh doanh và giàu có tiếng ở Sài Gòn. 
Đội Có, khoảng năm 1937, làm "mã tà" (cảnh sát) ở bót Tân Bình thuộc xã Phú Nhuận, Sài Gòn. 
Theo tài liệu của ''Ban Nghiên cứu lịch sử quận Phú Nhuận'', thì "Đội Có là tay sai của thực dân Pháp, nổi tiếng ác ôn trong việc đàn áp người kháng chiến. Ông cũng là tay tư sản chuyên cho vay ăn lời cắt cổ, có nhà đất cho mướn ăn sâu vào hai bên đường Phan Đình Phùng (Võ Di Nguy cũ) đến mấy trăm mét." (Dẫn lại theo Phan Thứ Lang, ''Sài Gòn vang bóng'', Nxb TP. HCM, 2001, tr. 136). 


Tư Mắt, giới giang hồ gọi là Tư Đại Ca (?- 1929) tên thật là Nguyễn Phát Trước (Vương Hồng Sển ghi Nguyễn Văn Trước), trước là trùm du đãng vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, kế đến là người chỉ huy cuộc phá Khám Lớn Sài Gòn năm 1916 để giải cứu Phan Xích Long, và sau cùng là Chưởng Nghiêm Pháp Quân, một chức sắc cấp cao của đạo Cao Đài, Việt Nam. 

. Việt Hải  & Mindy Hà : 
Cần Thơ là một thành phố lớn, sầm uất, một cửa ngõ ngó ra cả vùng hạ lưu sông Cửu Long, và là trung tâm kinh tế, văn hóa, một khu vực đầu não mang tính quan trọng về hành chánh, quân sự, cũng như vị trí chiếnn lược, với những tuyến giao thông vận tải trong toàn vùng, mà còn liên lạc với quốc tế của vùng đồng bằng sông Cửu Long và một vùng lãnh thổ xứng đáng đại diện cho miền Tây để tiếp xúc và giao thương đi những nơi khác.
Tôi thích ngân nga câu ca dao:
"Cần Thơ gạo trắng nước trong,
Ai đi tới đó lòng không muốn về"
Ý thơ gieo sự đồng thuận trong tôi vì một vùng đất thiên nhiên ưu đãi trù phú, dân cư đông đúc, mậu dịch sầm uất, và được gọi là vùng Tây Đô dưới thời Pháp thuộc vào thế kỷ thứ 19.
. Trần Vấn Lệ : 
- Tùy Bút  - Đói Lòng Ăn Nửa Chén Cơm  -  Mãi Mãi Sông Hương Nước Một Dòng  - Cúi Lậy Trời Cao  - Gieo Gió
. Trần Tuần Kiệt : 
- Một mùa xuân trở lại cho đời nghệ sĩ
. Phan Bá Thụy Dương giới thiệu : 
Thơ Thy An được cấu trúc chặt chẽ, hài hòa và đầy nhạc tính, với những nhân dáng, hình ảnh sâu đậm, mà Robert Bly và nhóm thi hữu của ông như James Wright, Louis Simpson, William Stafford... đã tận dụng, khai thác và được họ mệnh danh là "deep images". Lời thơ dù mang sắc thái lãng mạn, trữ tình, hoặc cảm xúc trước sông hồ, biển cả, núi non như được biểu tượng hóa, đều luôn phảng phất, tiềm tàng tinh thần nhất quán của một bản thể tính hoài niệm. 


Thơ Trần Vấn Lệ, vì thường viết liên tục nên có nhiều bài mới nhìn qua, người không rành chia nhịp, ngắt câu, có thể ngỡ anh làm thơ biền ngẫu, văn xuôi [poèm en prose]. Thí dụ một số bài tiêu biểu tôi giới thiệu dưới đây: Tùy Bút: ngũ ngôn, Đói Lòng Ăn Nửa Chén Cơm: lục bát, Mãi Mãi Sông Hương Nước Một Dòng: thất ngôn, Cúi Lậy Trời Cao, Gieo Gió: bát ngôn... thỉnh thoảng phá thể - chứ không phải hợp thể, một đôi câu thêm bớt chữ cho câu tròn ý hoặc để nhấn mạnh, truyền đạt nguồn cảm xúc....

Tuy viết đủ thể loại, nhưng nghiệp dĩ chính của Kiệt vẫn là thơ. Anh làm thơ rất nhanh có thể so sánh với chưởng môn Hà Thượng Nhân, hay Bùi Giáng. Những trường thi ca chính của anh đã viết như Bài Ca Thế Giới, Ngôi Đền Cổ, Trường Ca Đất, Triền Miên Ngâm Khúc Hồng Hạc, Niềm Hoan Lạc Của Thần Linh và Địạ Ngục, Lạc Đạo Thi... 
có bài dài cả ngàn câu.
. Trần Tư Bình & Ngô Đình Học : 
WinVNKey là phần mềm miễn phí để gõ chữ Việt và chữ các nước khác. Ngoài các chức năng giúp gõ chữ Việt được chính xác hơn và nhanh hơn, WinVNKey còn có rất nhiều chức năng mà các phần mềm khác chưa hỗ trợ hoặc có hỗ trợ nhưng chưa hoàn hảo. 
Bài này xin được giới thiệu vài chức năng hữu dụng đặc biệt của WinVNKey như sau: 
- Sửa các chữ biến dạng hoặc ô vuông trong email.
- Hoán đổi chữ hoa/thường, chữ hoa đầu câu, đầu từ cho văn bản chữ Việt.
- Tra dấu Hỏi Ngã.
- Hổ trợ bảng ký tự (Character Map) của Microsoft Windows và bàn gõ chữ Unicode.
- Hoán chuyển bảng mã (bộ chữ) tiếng Việt cho văn bản trơn (plain text) và văn bản định dạng RTF (rich text format).
Cổ Văn
Thơ cổ Trung Quốc
Phạm Vũ Thịnh : 
Hoài thủy biệt hữu nhân  / Trịnh Cốc (? - 896 ?)

Dương Tử giang đầu dương liễu xuân, 
Dương hoa sầu sát độ giang nhân. 
Sổ thanh phong địch ly đình vãn, 
Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần. 

LaiQuangNam giới thiệu : 
Đây là một trong 15 bài thơ Đường mà học sinh hai cấp lớp 7, và 10 phải đọc hiện nay. Trong nền Giáo dục này , thầy cô giáo phải lồng tư tưởng vào văn bản, không biết Quý Thầy Cô có lồng đúng cảm xúc của mình không, lồng kiểu nào, hay là quý thầy cô không thường được tiếp cận lịch sử nước mình vì lý do nào đó ...., nay laiquangnam xin có vài tư liệu gọi là đóng góp . 
Quỳnh Chi phỏng dịch : 
Mai thôn 

Chỉ li mao xá yểm thương đài 
Khất trúc phân hoa thủ tự tài 
Bất hảo nghệ nhân tham khách quá 
Quán trì tác đáp ái thư lai 
Nhàn song thính vũ than thi quyển 
Độc thụ khán vân thượng khiếu đài 
Tang lạc tửu hương lô quất mỹ 
Điếu thuyền tà hệ thảo đường khai 
             Ngô Vĩ Nghiệp 

Thơ
. Cát Hoàng : 
Chợ hoa
Chợ hoa vắng người bán hoa 
Tội người mua cũ xót xa đi tìm 
Ai đời ngộ quá trái tim 
Đã sai nhịp đập còn phiền người dưng 
Bán hoa ai bán nửa chừng 
Chẳng sang ngang mà mấy chợ xuân không về 
Để người mua cũ ủ ê 
Chợ hoa mòn gót ê hề chẳng mua 
Chợ hoa thiếu vắng trúc vua 
Chợ xuân đông 
Mấy ai mua xuân tình? 
. Quỳnh Chi : 
Vạn diệp thi 

Xuân về viết tâm tình lên vạn lá 
Mỗi ngày qua một chiếc lá chờ mong 
Mỗi bài thơ xanh biếc một chồi non 
Dần chín đỏ cuối mùa thu hồng điệp 

Mùa xuân tới trên cành mơ vạn diệp 
Vạn tờ hoa cho màu nắng đề thơ 
Cho thi nhân muôn ngọn bút măng tơ 
Tô màu thắm mưa xuân trong nghiên viết 

Mùa xuân đến gửi lòng vào lá biếc 
Ướp hương mai, nắng mộng với mưa mơ 
Màu lá xanh duyên hẹn ước đợi chờ 
Nào đâu biết thu vàng phai màu lá 

Đông về liệm dưới mấy tầng băng giá 
Rữa tan dần theo cát bụi thời gian 
Hồn thơ còn trong mạch lá  lưu hương 
Chờ duyên kiếp tái sinh mùa xuân tới 

Quỳnh Chi (25/2/2007)

. Đỗ Thị Minh Giang :
 
Phố French Quarter, New Orleans ,LA.

Blue Jazz buồn man mác New Orleans 
Lữ khách tha phương chân bước ngại ngần 
Café DuMond* thơm hương Beignets* 
Hơi gió nhẹ đưa nhạc vọng âm ngân . 

French Quarter mấy trăm năm còn đó 
Đêm mộng mơ dìu bước đôi tình nhân 
Ngựa xe xuôi ngược đèn vàng bóng đổ 
Hoài niệm xa xưa lòng chợt bâng khuâng . 

Cổ xưa đền thánh ST. Louis 
Bền vững phơi cùng bao gió sương 
Mississippi dòng uốn lượn 
Ven sông du khách ngắm chiều vương . 

. Nguyễn Chính :
Chốn cũ 
Nửa chiều tìm về chốn cũ 
Lang thang như người mộng du 
Chân trời, hoàng hôn xuống vội 
Quê xưa liệu có người chờ ? 
. Lê Huỳnh Lâm : 
Mảnh Vỡ Ngày Mai 

chuyến tàu đêm băng qua 
gương mặt thành phố đẫm sương trong bộ dạng ngái ngủ 
những cột điện chạy về phía chân trời 
vàng vọt giấc mơ 
giờ này có thể em trùm chăn ôm nỗi nhớ 
tôi lắp ghép những mảnh vỡ ngày mai 
hình hài tương lai sẽ không còn nguyên vẹn 
cuộc hẹn 
bên bậc thềm hoang 
vắng bóng người
hương loài hoa trắng phảng phất 
giữa hơi mù 
lời ru khuya lọt qua từng khe cửa 
đợi cơn mưa từ phía những cánh rừng. 

. Bùi Văn Bồng : 
NHỚ ĐÊM TRĂNG KHUYẾT 

      Ai cài trăng khuyết vào thơ 
Để lòng tôi cứ ngẩn ngơ bên đường 
      Ai người đã nói lời thương 
Để tôi trở gối trên giường canh thâu 

      Tìm hoài cái ngủ về đâu 
Đêm như đêm ấy trên đầu khuyết trăng 
      Tôi như bị mất thăng bằng 
Cầm tay em ngón búp măng ngượng ngùng 

      Tôi rơi vào chốn mông lung 
Là khi em chẳng thức cùng đêm mơ 
      Hết khù khờ lại ngu ngơ 
Dưới trăng thổn thức đợi chờ bóng em 

      Giời sinh ra mái tóc đen 
Sinh ra má phấn hồng thêm nắng chiều 
       Lại sinh ra một chữ: YÊU 
Để tôi một bóng cô liêu nhớ người 

       Cái vầng trăng khuyết trêu ngươi 
Bao năm canh cánh đầy vơi nỗi lòng 
        Nhớ đêm thao thức chờ mong 
Câu thơ trăng khuyết ngược dòng lên mây.

. Hoàng Hoa : 
BẾN SÔNG XƯA

Người bỏ đi  bờ sông năm ấy 
Con thuyền quay mũi ngược thời gian 
Lơ thơ lau lách  nhìn nhau gọi 
Bãi vắng bờ hoang cỏ ngút ngàn 
Mái tranh lên khói hoàng hôn tím 
Giọt nắng thơ ngây tiếc tháng ngày 
Bâng khuâng  cánh mỏi chân trời lạ 
Có chút gì vương vấn ở nơi đây 

Mộng đã căng buồm theo gió đi 
Bến sông xưa có kẻ quên về 
Chợt một hôm nào quay nhìn lại 
Xa lắm rồi ! Ơi một bến quê. 

Ngã lãng du thời quân thượng thiếu 
Quân kim hứa giá ngã thành ông * 
Lặng nghe tiếng hát bên sông 
Đắng cay giọt rượu lạnh lùng giấc xuân 

Đêm  đêm đất khách 
Kẻ ly  hương hoài vọng một thời xa 
Đóm lửa bùng lên dĩ vãng nhạt nhòa 
Đâu  hơi ấm  quê nhà bao năm cũ 

Gió bắc lạnh đã về  đêm trăng  mới 
Ngựa Hồ cũng đã đổi hướng đi 
Cuộc đời ta quên cả tuổi xuân thì 
Đành lỗi hẹn - Chờ em mùa Xuân tới. 

. Trương Ngọc Thạch : 
TUỔI GIÀ

Tuổi già nhàn lắm, các cụ ơi! 
Cầy cuốc, hôm nay dẹp hết rồi. 
Rộng rãi thênh thang, nhà hai đứa, 
Thoải mái ra vào, đôi ta thôi. 

. Tâm Minh Ngô Tằng Giao  chuyển ngữ: 
- Tôi hát cùng bạn, Tự do ơi  (Je chante avec toi, Liberté  / G. Verdi )
. Trần Hạ Tháp : 
V ề   m ộ t   l o à i   c ó   c á n h 
Chim 
Biến thái ngược 
Đậu đất 
Thành gia cầm cánh nặng 
Chạy và đi 
Vô nghĩa bầu trời 
Từ ấy ký-ức-bay quên lãng 
. Phan Bá Thụy Dương : 
1. 
như một vì sao lạc giữa sơn khê 
nhìn trần thế âm u màu chướng khí 
người rũ áo - xoa hành tinh, ứa lệ 
gọi hồn thiêng sông núi đến tự tình 
đem hạt nhân hòa, nhân ái kết tinh 
âm thầm cấy dưới đồng ngô, ruộng lúa 
2- 
rải thương yêu, ngọt ngào trên đất khổ 
tô màu xanh cho biển rộng xanh thêm 
điểm son hồng trên môi má nhung êm
pha hương sắc cho đời thôi u uất 

3- 
người quỳ đó: cô đơn và trầm mặc
viết tâm kinh mà tâm thức hắt hiu 
tay khẳng khiu hứng từng đợt nắng chiều 
phủ trên mộ, trên rừng hoang cô quạnh 
có phải người hóa thân làm ánh sáng? 
soi rọi tự thân, soi chiếu đêm mê 
như một vì sao lạc giữa sơn khê

. Hà Nguyên Dũng :

 
 

Trở Về  ]